Thứ Tư, 31 tháng 10, 2007

Thi truong bong bong

Chuyện người, chuyện ở ta

Nguyễn Vạn Phú

  • Khủng hoảng tín dụng địa ốc ở Mỹ, đang gây chao đảo cho thị trường tài chính toàn cầu, liệu có cung cấp bài học gì cho thị trường địa ốc nước ta?

Năm 2004, khi sang Mỹ công tác, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy đi đến đâu, người ta cũng bàn chuyện mua bán nhà. Nhiều người Việt sống ở những vùng gần Washington DC, Houston, Texas hay Santa Ana, California mua vài ba căn nhà, ai nấy đều “phấn khởi” vì giá nhà tăng nhanh, tính ra, họ đã lời những khoản rất lớn. Hỏi chuyện mới biết, mua nhà những năm ấy khá dễ dàng. Họ chỉ cần trả ngay khoảng 20% giá trị căn nhà, còn lại sẽ trả góp trong vòng 20 năm hoặc lâu hơn. Lãi suất lúc ấy lại rất thấp nên mua xong, cứ cho thuê để lấy tiền trả góp ngân hàng, được giá là bán lại, lấy lời.
Lúc đó, tôi có đến thăm những khu phát triển địa ốc ở Texas mà có dạo cũng quảng cáo rao bán cho người trong nước, gây xôn xao ở nước ta một thời gian. Bây giờ nhìn lại, mới thấy đấy là tiền đề của cuộc khủng hoảng tín dụng địa ốc đang gây khó khăn cho nền kinh tế của Mỹ và kéo theo sự phá sản của nhiều tổ chức tín dụng trên khắp thế giới.
Thị trường lúc nào cũng chịu tác động của quy luật cung cầu. Người ta mua nhà không phải vì nhu cầu chỗ ở mà sử dụng nó như một công cụ đầu tư thì chắc chắn sau một thời gian xây thêm nhà để bán, thị trường sẽ thừa nhà. Để “kích cầu”, giới tài chính Mỹ “làm liều” cho vay mua nhà ngay cả những người có tiền sử tín dụng xấu – gọi là subprime loan mà chúng ta bây giờ hay nghe báo chí sử dụng để tính lãi trên trời. Khi lãi suất được liên tục nâng lên trong những năm gần đây, món nợ vay mua nhà bỗng tăng vọt (vì áp dụng lãi suất thả nổi). Nhiều người mất khả năng chi trả - nhà lại không bán được dễ dàng như trước vì lãi suất cao rồi, tính ra không còn lời nhanh như mấy năm trước. Sau khi tận dụng các kỹ thuật để thu thêm một khoản lãi nữa như cho vay để tái cấu trúc nợ, cho vay khoản vay thứ nhì trên cùng căn nhà đã thế chấp, các tổ chức tín dụng bắt đầu công bố tin xấu: nợ khó đòi tăng vọt.
Thế là sụp đổ dây chuyền. Cái tinh vi của thị trường tín dụng địa ốc này là ở chỗ: các khoản vay tín dụng xấu này được “đóng gói” thành các loại cổ phiếu, chẻ nhỏ ra rồi đem lên giao dịch trên thị trường chứng khoán. Vì thế, dù là chuyện cho vay mua nhà ở Mỹ nhưng ảnh hưởng thì lan đến tận New Zealand, Đức, Pháp, Úc… vì họ tham gia mua bán chứng khoán loại này.
Đó là chuyện của người ta. Liệu nó có liên quan gì đến những đợt sốt nhà đất ở nước ta trong thời gian gần đây? Nhiều người nói không hề vì ở nước ta mua nhà thường trả bằng tiền mặt chứ không có chuyện vay ngân hàng để mua. Có vay ngân hàng chăng nữa, thì tỷ lệ cho vay trên giá trị căn nhà rất thấp, tiền sử tín dụng của người vay được cân nhắc kỹ. Có lẽ họ nói đúng nhưng có những dấu hiệu cảnh báo rất rõ ràng, không thể không nói ra.
Khủng hoảng tín dụng địa ốc ở Mỹ có quy mô lớn, nhưng lẽ ra nó còn lớn hơn gấp nhiều lần nếu không có những sắc thuế ngăn chận bớt lòng tham của nhà đầu cơ. Nhắc lại chuyến đi Mỹ hồi năm 2004, nhiều người Việt cũng cho biết họ không tham gia vào phong trào đầu cơ nhà cửa vì họ ngại chuyện thuế. Ở Mỹ, sở hữu nhà thì phải đóng thuế bất động sản cho chính quyền địa phương – thuế suất mỗi nơi mỗi khác. Ví dụ ở Houston, Texas, một căn nhà của một gia đình trung lưu có mức thuế hằng năm chừng 8.000 đô-la. Ngoài ra, nếu bán căn nhà mua chưa đầy hai năm và có lãi thì phải đóng thuế thu nhập chừng 15%. Người mua nhà hòng kiếm lời còn phải tính đến phí hoa hồng giao dịch (ít ai mua bán trực tiếp), mua về để cho thuê phải tính đến thuế kinh doanh nhà cho thuê…
Ở ta, chưa có những sắc thuế như vậy nên người có tiền cứ thoải mái đầu cơ vào nhà đất, giá lên bao nhiêu là hưởng lợi bấy nhiêu. Đây là một điểm khác biệt lớn mà nếu không có chính sách điều chỉnh sớm, cơn sốt nhà đất sẽ khó lòng hạ nhiệt.
Thứ nữa, mặc dù chưa thấy có hiện tượng người dân bình thường vay tiền mua nhà để bán lại, nên nhớ rất nhiều dự án nhà đất lớn trong thời gian vừa qua được các ngân hàng tài trợ vốn. Hiện nay, theo quan sát của giới chuyên môn, đến 80-90% người mua các căn hộ chung cư đang sốt nóng không mua để ở mà mua để dành đó sau này bán lại kiếm lời. Cứ tạm tính chỉ một phần ba các vụ giao dịch ở dạng này, chẳng mấy chốc, nhu cầu mua nhà sẽ đạt để đỉnh và nhanh chóng rớt xuống. Lúc đó, chủ đầu tư lấy tiền đâu trả nợ cho ngân hàng? Dòng tiền họ tính toán sẽ thu được trong thời gian tới liệu có trôi chảy như trong bản thuyết minh dự án đi vay tiền? Chưa kể, với sự đóng mặt của thị trường chứng khoán, các khoản vay này cũng được “đóng gói” biến thành cổ phiếu đang được ngay chính các tổ chức tín dụng hay các công ty khác sở hữu; liệu có gì khác với các công cụ tài chính với các tên rất kêu từng được rao bán ở thị trường tài chính quốc tế?
Sức hút của những khoản lời khổng lồ đang cuốn nguồn lực của xã hội vào cơn lốc đầu tư và đầu cơ địa ốc; chắc chắn nguồn lực dùng để xây dựng nhà giá thấp cho người có thu nhập bình thường sẽ bị chia sẻ. Hình ảnh hàng ngàn căn hộ đắt tiền bỏ trống, không ai ở bên cạnh những khu ổ chuột mới hình thành với hàng ngàn công nhân sống chen chúc từng xảy ra ở Thái Lan, sẽ có khả năng xảy ra ở nước ta nếu chúng ta không nhận ra nguy cơ “bóng bóng” của thị trường và nhanh chóng có biện pháp điều chỉnh.

Thứ Năm, 18 tháng 10, 2007

Giai Nobel Kinh te 2007

Nobel Kinh tế 2007
Lý thuyết trò chơi “đảo ngược”

Nguyễn Vạn Phú
Ba nhà khoa học người Mỹ nhận giải Nobel Kinh tế năm nay, Leonid Hurwicz, Eric Maskin và Roger Myerson xuất thân là nhà toán học ứng dụng. Tuy thế những nghiên cứu của họ đã có tác động lớn đến kinh tế học vi mô và được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lãnh vực.
Những ai có nghiên cứu về kinh tế học đều biết đến khái niệm “bàn tay vô hình” của Adam Smith, cổ xúy cho các nguyên tắc thị trường tự do. Nhưng “bàn tay vô hình” chỉ phát huy tác dụng ở một thị trường hoàn hảo, nơi thông tin được cung cấp đầy đủ. Trong trường hợp thị trường không hoàn hảo, giao dịch có thể thất bại vì người mua, người bán, do thiếu thông tin, có thể đưa ra giá không bên nào chấp nhận được. Ví dụ, một hợp đồng bảo hiểm ốm đau sẽ thất bại nếu đưa ra mức bồi thường quá thấp hay ngược lại, cũng thất bại nếu đưa ra điều kiện quá dễ dàng vì bị lạm dụng. Người bán luôn có động cơ đưa ra giá cao nhất có thể đưa và người mua luôn có động cơ ngược lại, cả hai bên lại không đủ thông tin của nhau (tình trạng thông tin bất đối xứng) nên kết quả giao dịch có thể không hoàn hảo hay thậm chí thất bại. Nghiên cứu của ba người nhận giải Nobel năm nay - gọi chung là “lý thuyết thiết kế cơ chế” đã giúp người ta hiểu được các cơ chế cần có để tìm một sự cân bằng tối ưu giúp thị trường hoạt động.
Nghiên cứu về thiết kế cơ chế là một phân ngành kinh tế học trừu tượng, sử dụng các mô hình và công thức toán học phức tạp. Các tạp chí kinh tế nước ngoài, khi đưa tin về giải Nobel Kinh tế năm nay, đều phải dựa vào các ví dụ được đơn giản hóa. Một trong những cơ chế được lấy làm ví dụ là đấu giá. Giả thử một bức tranh của danh họa Picasso được bán đấu giá, cơ chế đấu giá như thế sẽ buộc người tham gia phải phát ra thông tin - thông qua các mức đấu giá - về giá trị bức tranh theo đánh giá của từng người. Như vậy, vai trò của các nhà khoa học này là sử dụng toán học để phân tích và mô tả quy trình “thúc đẩy người giao dịch cung cấp thông tin thật”.
Có lẽ chúng ta còn nhớ giải Nobel Kinh tế năm 2005 (trao cho Thomas Schelling và Robert Aumann) về các công trình ứng dụng lý thuyết trò chơi. Trước đó, John Nash, mà cuộc đời được đưa lên màn ảnh qua phim “A Beautiful Mind” cũng được trao giải Nobel Kinh tế năm 1994 nhờ lý thuyết trò chơi.
“Thiết kế cơ chế” là một dạng lý thuyết trò chơi đảo ngược. Trong khi lý thuyết trò chơi tìm hiểu xem cá nhân sẽ hành xử như thế nào trong những hoàn cảnh nhất định khi có những tác nhân nhất định thì lý thuyết “thiết kế cơ chế” tìm cách thiết kế các hoàn cảnh và các tác nhân sao cho đạt được cách hành xử mong muốn.
Alvin Roth, một giáo sư kinh tế tại Đại học Harvard giải thích trên tờ Wall Street Journal: “Có thể nói trước khi có lý thuyết trò chơi hiện đại, các nhà kinh tế học nhìn vào thị trường như nhà thực vật học nhìn vào cây cảnh, tìm cách nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên. Thiết kế cơ chế nhìn nhận rằng thị trường là do con người xây dựng nên để bắt đầu tự hỏi: chúng ta có thể làm gì hay không làm được gì với thị trường, cách nào là tốt nhất để tác động lên nó”.
Vì thế thiết kế cơ chế được ứng dụng trong rất nhiều lãnh vực: từ chính sách quản lý nhà nước, phân bổ nguồn lực, chính sách thuế đến cơ chế đấu giá, lập hợp đồng bảo hiểm. Nói chung lý thuyết của các nhà kinh tế học được giải Nobel năm nay có thể sử dụng làm cơ sở giúp xác định lúc nào thị trường hay cơ chế nào có tác dụng cung cấp kết quả mong muốn. Ví dụ, chính phủ Anh đã thiết kế một cơ chế tối ưu khi bán đấu giá giấy phép khai thác mạng điện thoại di động 3G năm 2000, thu về cho ngân sách hơn 22 tỷ bảng Anh. Cơ chế này buộc các hãng tham gia phải đưa ra giá phản ánh được giá trị thật của giấy phép và ngăn cản họ liên kết với nhau để ép giá và hưởng lợi.
Giáo sư Leonid Hurwicz (Đại học Minnesota) năm nay 90, là người lớn tuổi nhất đoạt giải Nobel từ trước đến nay. Ông là người khởi sự nghiên cứu về lý thuyết thiết kế cơ chế từ những năm 1950. Giáo sư Eric Maskin, 57 tuổi, hiện đang giảng dạy tại Học viện Nghiên cứu Cao cấp, Đại học Princeton, là người nghiên cứu sâu về thiết kế tối ưu cho các hình thức đấu giá. Riêng Roger Myerson, 56 tuổi, hiện là giáo sư của Đại học Chicago, là một trong những tác giả của một định lý quan trọng của lý thuyết thiết kế cơ chế. Mặc dù được báo chí gọi là giải Nobel Kinh tế, tên chính thức của giải này là Giải thưởng Tưởng niệm Nobel về Khoa học Kinh tế, không liên quan trực tiếp đến các giải Nobel khác vì do ngân hàng trung ương Thụy Điển tổ chức. Trị giá giải năm nay vào khoảng 1,5 triệu đô-la Mỹ, sẽ được trao chính thức vào ngày 10-12.




Windows:
“Thiết kế cơ chế” là một dạng lý thuyết trò chơi đảo ngược. Trong khi lý thuyết trò chơi tìm hiểu xem cá nhân sẽ hành xử như thế nào trong những hoàn cảnh nhất định khi có những tác nhân nhất định thì “thiết kế cơ chế” tìm cách thiết kế các hoàn cảnh và các tác nhân sao cho đạt được cách hành xử mong muốn.


Box
Các giải Nobel khác:
+ Hòa bình: Trao cho cựu phó tổng thống Mỹ Al Gore và Ủy ban liên chính phủ về thay đổi khí hậu của Liên hiệp quốc về những nỗ lực đối phó với tình trạng thay đổi khí hậu.
+ Văn học: Nữ văn sĩ người Anh Doris Lessing.
+ Hóa học: Nhà khoa học người Đức Gerhard Ertl nhờ công trình nghiên cứu về phản ứng hóa học trên bề mặt rắn.
+ Vật lý: Nhà khoa học người Pháp Albert Fert và đồng sự người Đức Peter Grunberg nhờ khám phá công nghệ đọc dữ liệu trên ổ cứng.
+ Y học: Mario Capecchi (người Mỹ gốc Ý), Martin Evans (người Anh) và Oliver Smithies (người Mỹ gốc Anh) cho các nghiên cứu về công nghệ gen.

Bài đăng phổ biến