Thứ Tư, 28 tháng 4, 2010

Ngắn và dài, lợi và hại

Ngắn và dài, lợi và hại

+ Đến nay ai cũng thấy có hiện tượng doanh nghiệp vay bằng đô-la Mỹ, bán ra lấy tiền đồng để sử dụng nhằm hưởng chênh lệch lãi suất. Doanh nghiệp lúc nào cũng nhạy bén, tìm mọi cách giảm chi phí, tăng lợi nhuận miễn sao không trái với pháp luật là được. Hiện tượng này lại góp phần làm giảm áp lực lên tỷ giá, biểu sao mọi người không hài lòng!

Thế nhưng chuyện gì cũng có giá của nó và vai trò của cơ quan quản lý nhà nước là lường trước mọi hệ quả của các xu hướng trong nền kinh tế để có chính sách thích hợp.

Việc chuyển dịch nói trên chỉ xảy ra bên trong nền kinh tế Việt Nam nên nó chỉ có tác động ngắn hạn nếu các mất cân đối trong cán cân thanh toán chưa được giải quyết. Nói cách khác, đây là hiện tượng carry trade (tận dụng chênh lệch lãi suất giữa hai nước để kiếm lợi) nhưng nằm hoàn toàn bên trong một nước. Thông thường tỷ giá đồng tiền giữa hai nước sẽ dịch chuyển theo hướng đồng tiền của một nước sẽ phải mất giá để bù đắp vào lãi suất cao. Nếu thị trường diễn biến theo quy luật như thế, doanh nghiệp vay bằng đồng đô-la, bán ra, lấy tiền đồng sẽ chịu rủi ro tỷ giá để cuối cùng chênh lệch lãi suất sẽ bị triệt tiêu.

Doanh nghiệp ắt biết rõ điều đó nhưng họ lại được “bảo lãnh” bởi các tuyên bố của giới có thẩm quyền về việc ổn định tỷ giá nên mới dám chấp nhận rủi ro. Một môi trường như thế đã khuyến khích việc liều lĩnh, kể cả của người vay và của ngân hàng. Có thể xem đây như một dạng bao cấp gián tiếp cho doanh nghiệp và ngân hàng.

Cũng theo quy luật, một khi có người hưởng lợi (ở đây là chênh lệch lãi suất) thì ắt phải có người bị thiệt hại. Một chuyên gia tài chính cho rằng người bị thiệt hại ở đây là nhà nước khi phải đối diện với khả năng tung dự trữ ngoại tệ ra để bình ổn tỷ giá sau này. Người viết thì cho rằng thiệt hại sẽ rơi vào người dân có một khoản tiết kiệm bằng đô-la hiện nay. Vì sao? Nếu doanh nghiệp biết vay bằng đô-la để hưởng chênh lệch lãi suất thì người dân có tiết kiệm bằng đô-la sẽ cũng tính toán bán đô-la, lấy tiền đồng gởi ngân hàng, cũng để hưởng chênh lệch lãi suất. Trong ngắn hạn, tiền đồng sẽ càng tăng giá khi xu hướng này lan tỏa. Đến lúc áp lực tỷ giá quay về hướng cũ, nhà nước không thể bình ổn tỷ giá mãi, thì người chịu thiệt chính là người dân.

Xu hướng diễn tiến thị trường ngoại hối hiện nay là tích cực nhưng cũng phải nhìn ra những tác động ngoài ý muốn như trên để có biện pháp lường trước ngay từ bây giờ.

* * *

+ Ai cũng đồng ý để duy trì sự ổn định của nền kinh tế, điều cần làm là giải quyết vấn đề lạm phát, bội chi và nhập siêu. Rất nhiều giải pháp đã được các nhà kinh tế đưa ra nhưng ít ai chú ý những yếu tố dài hạn sẽ tác động mạnh và càng làm những vấn đề này trầm trọng hơn trong tương lai.

Đó là những dự án trị giá hàng chục tỷ đô-la đang được nhiều ngành, nhiều địa phương ấp ủ, vận động và tìm mọi cách thông qua và triển khai.

Ngành đường sắt có dự án đường sắc cao tốc Bắc – Nam, trị giá 55 tỷ đô-la, tức là hơn một nửa GDP của Việt Nam. TBKTSG đã từng đăng bài viết của một chuyên gia kinh tế chứng minh một dự án như thế là không khả thi về mặt kinh tế. Nhưng giả thử dự án vẫn triển khai, cứ hình dung xem nó sẽ “đóng góp” như thế nào vào nhập siêu, vào bội chi, nợ nước ngoài và lạm phát. Ngành hàng không có dự án sân bay Long Thành, 7 tỷ đô-la; Hà Nội thì đề xuất với Chính phủ cho phép vay vốn nước ngoài “vài” tỷ đô-la để thực hiện các dự án lớn. Còn nhiều dự án khác như thế đang được soạn thảo hay trình duyệt.

Khi nói đến việc chú trọng chất lượng tăng trưởng hơn là số lượng hay tốc độ thì ai cũng đồng tình. Nói chuyển dịch tăng trưởng từ chỗ dựa vào đầu tư sang cải thiện năng suất hay hiệu quả thì ai cũng đồng ý. Nhưng cái khó là áp dụng trong thực tế bởi những mối quan hệ, những lợi ích đan xen khó gỡ. Đây chính là vai trò nhạc trưởng của người điều hành kinh tế vĩ mô, có tạo được sự nhất quán giữa chủ trương và thực tế, lúc đó mới giải quyết các vấn đề nhập siêu, bội chi, lạm phát và tỷ giá nói trên.

* * *

+ Thực tế cho thấy sau khi Nghị định 01/2010 về việc chào bán cổ phần riêng lẻ của các công ty cổ phần ra đời từ đầu năm nay, việc đăng ký hồ sơ ở các sở Kế hoạch-Đầu tư bị ách tắc. TBKTSG trong hai số gần đây đã đăng bài phân tích của các chuyên gia luật về tính bất khả thi của Nghị định này, thực chất là do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước biên soạn nhằm phục vụ mục đích quản lý của cơ quan này.

Nay chính Bộ Kế hoạch & Đầu tư cũng đã soạn văn bản đề nghị Chính phủ bãi bỏ Nghị định này vì cho rằng nó “khá phức tạp, có thể gây phiền hà, tốn kém thêm cho doanh nghiệp, chưa phù hợp với cam kết cải cách thủ tục hành chính theo yêu cầu của Đề án 30 của Chính phủ”, thậm chí “một số quy định hướng dẫn của Nghị định số 01 là không phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp”. Nên biết Bộ này đang soạn thảo một nghị định thay thế Nghị định 139 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp. Lẽ ra Ủy ban nên phối hợp với Bộ để cùng nhau biên soạn và tích hợp nội dung chào bán cổ phần riêng lẻ vào dự thảo này. Một sự phối hợp như thế mới đúng tinh thần của Đề án 30, cải cách thủ tục hành chính để giảm bớt phiền hà cho doanh nghiệp.

Việc soạn thảo, lấy ý kiến cho dự thảo nghị định thay thế Nghị định 139 đang được tiến hành khá bài bản, được sự góp ý của nhiều hiệp hội và doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó, cách tốt nhất là dự thảo này nên có phần bao quát chuyện chào bán cổ phần riêng lẻ, và sau đó có điều khoản tuyên bố thay thế cho Nghị định 01. Và có lẽ việc cuối cùng là các cơ quan nhà nước cùng nhau rút kinh nghiệm để tránh tình trạng văn bản pháp luật không đi vào cuộc sống.

Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2010

Đằng sau vấn nạn “luộc” giáo trình

Đằng sau vấn nạn “luộc” giáo trình

Sao chép giáo trình của người khác làm của mình là điều không thể chấp nhận. Đó là chuyện hiển nhiên. Nhưng điều cần làm là tìm hiểu cái cơ chế gì đã gây ra hiện tượng đáng buồn này, có cách nào để tạo môi trường nơi việc sao chép không có động cơ gì để tồn tại.

Thông thường ở các nước, mỗi môn học có rất nhiều sách giáo khoa nhưng tồn tại được trên thị trường, được các giáo sư sử dụng là vài cuốn nổi bật. Giảng viên chọn cuốn nào thì thông báo ngay từ đầu năm để sinh viên mượn ở thư viện hay đi mua sách về học. Không thể có chuyện một nước có vài trăm hay vài ngàn trường đại học, mỗi trường đều gắng sức soạn giáo trình cho riêng trường mình sử dụng.

Ở Việt Nam, nhiều giảng viên đại học cho biết, trường nào cũng có hệ thống giáo trình riêng của mình, bề ngoài là để phù hợp với đặc điểm chương trình giảng dạy, để thể hiện năng lực đào tạo, tính tự chủ trong chuyên môn. Nhưng sâu xa hơn, việc biên soạn giáo trình đem lại những lợi ích mang tính cục bộ cho những người trong cuộc. Trường thì được tiếng là chủ động được giáo trình, ít trường nào chịu sử dụng giáo trình của trường khác biên soạn. Chủ biên thì được tính vào thành tích để được phong hàm giáo sư hay phó giáo sư. Đó là chưa kể lợi ích vật chất rất rõ khi bán được sách cho sinh viên. Dĩ nhiên vẫn có những nhóm biên soạn sách giáo khoa có chất lượng cao, với tâm huyết làm được một điều gì đó có ích cho nền giáo dục. Nhưng với đại đa số các trường, nhất là hàng trăm trường vừa mới được thành lập trong thời gian gần đây, năng lực làm sao đủ để biên soạn giáo trình, từ đó chuyện sao chép, chuyện cắt dán diễn ra tràn lan.

Thay đổi thực trạng này là khá dễ, chỉ cần mọi người thay đổi cách suy nghĩ.

Trước hết là thay đổi quy định từ Bộ, đừng buộc hiệu trưởng “tổ chức biên soạn hoặc tổ chức lựa chọn, duyệt giáo trình”. Công việc chọn sách giáo khoa, sách tham khảo nên giao cho giảng viên trực tiếp làm, với sự tham vấn của tổ bộ môn, miễn sao sách phù hợp nội dung chương trình khung do Bộ quy định. Các trường đại học và giảng viên đừng nên tiêu phí công sức vào việc cố gắng tổ chức biên soạn giáo trình cho riêng mình bất kể nguồn lực có hạn. Phải vì lợi ích chung và lợi ích của sinh viên để gạt tự ái qua một bên.

Nếu làm được điều đó, chỉ cần một thời gian ngắn sẽ xuất hiện những bộ sách giáo khoa có chất lượng và việc cạnh tranh để sách được nhiều giảng viên đồng nghiệp chọn buộc người biên soạn phải luôn cố gắng nâng cao chất lượng, lại chịu sự giám sát rộng rãi nên không thể có chuyện sao chép. Quy mô sử dụng càng lớn, động lực soạn sách hay sẽ càng cao. Các trường và giảng viên vẫn có thể bổ sung những nội dung nếu thấy cần giảng dạy cho sinh viên.

Thật ra mô hình sử dụng sách giáo khoa như ở các nước cũng có những khiếm khuyết. Người ta phê phán nó tạo ra một dạng độc quyền ẩn khi giảng viên có quyền yêu cầu sinh viên sử dụng sách mình muốn chọn, giá sách quá cao. Ở nước ta rất dễ xảy ra chuyện “vận động” để sách mình được chọn nhiều nhất khi hiện tượng độc quyền trực tiếp như hiện nay chấm dứt. Hiện nay các nước đang giải quyết bằng cách xây dựng các mô hình thay thế như nhà xuất bản cung ứng dịch vụ cho thuê sách, tổ chức bán lại sách đã qua sử dụng, đưa giáo trình miễn phí lên mạng, soạn sách giáo khoa điện tử...

Nhưng đó chưa phải là vấn đề trước mắt của Việt Nam. Vấn đề cần giải quyết là làm sao tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trong việc biên soạn và sử dụng sách giáo khoa để tránh nạn “luộc” sách và nâng chất lượng giáo trình.

Thứ Năm, 22 tháng 4, 2010

BBC và một case study cho nghề báo

BBC và một case study cho nghề báo

Tôi có ước muốn biên soạn một cuốn sổ tay làm báo, ghi lại kinh nghiệm của mình và đồng nghiệp nhưng chưa thể thu xếp thời gian để thực hiện. Thế nhưng nếu có viết, chắc chắn vụ việc BBC (Ban tiếng Việt) xử lý bài của tác giả Đỗ Ngọc Bích sẽ là một trường hợp nghiên cứu (case study) thú vị và bổ ích. Bổ ích vì nó có thể là bài học cho người làm báo - lý thuyết nói ra thì dễ nhưng thực hành cho nhất quán lại khó nên phải tự mình nhắc nhở mình cố gắng làm cho đúng nguyên tắc.

Cái sai đầu tiên của BBC là thiếu kiểm chứng đầy đủ. Một tờ báo lúc nào nhận bài của cộng tác viên, nhất là cộng tác viên mà tên tuổi đã quen thuộc với công chúng đều phải kiểm chứng xem có đúng là do tác giả gởi hay không, có phải thông tin về tác giả đúng như họ công bố không, mình có hiểu đúng thông tin không. Nếu làm tốt công đoạn này, BBC đã không phạm sai lầm về chuyện Đại học Yale hay Đại học Hawaii at Manoa để sau đó phải cáo lỗi độc giả. Không rõ quy trình kiểm chứng của BBC hỏng ở khâu nào. (Xin mở ngoặc nói thêm, điều thú vị là nhiều cộng tác viên gởi bài lại yêu cầu không ghi cụm từ “tiến sĩ” trước tên của họ, nhiều người cẩn thận dặn không được ghi nơi họ đang công tác vì họ viết với tư cách cá nhân).

Thứ nhì, bất kỳ điều gì đăng lên báo thì người biên tập phải hiểu, không hiểu thì phải hỏi cho rõ chứ không biên tập ẩu. Ví dụ thấy ghi Ph.D (ABD) phải hiểu là “còn chút xíu nữa mới là tiến sĩ”. Tôi nghĩ ở đây BBC đã mắc lỗi diễn dịch sai chứ không phải lỗi của tác giả còn tác giả sử dụng cái danh xưng Ph.D (ABD) nghe có kỳ cục hay không là chuyện khác.

Thứ ba, bài của cộng tác viên viết mang tính phê phán một nhân vật thứ ba thì càng phải kiểm chứng với các nguồn liên quan trước khi đăng. Giả thử có ông A viết bài sỉ nhục ông B mà tòa soạn lập luận cứ đăng trong phần diễn đàn rồi thêm câu “đây là quan điểm của người viết, không phải của chúng tôi” để giải trừ trách nhiệm là không ổn. Bài viết đang đề cập liên quan đến cả một dân tộc nên cần phải kiểm chứng hay chính xác hơn là phải tham vấn ý kiến các chuyên gia trong lãnh vực đó để nhờ họ thẩm định trước khi đăng tải. Phải thẩm định là vì nhiều ý trong bài mang tính khẳng định như là facts chứ không phải là opinion – khi facts bị sai thì nơi đăng tải phải liên đới chịu trách nhiệm.

Cái sai thứ tư của BBC là không tôn trọng nguyên tắc xử lý bài mang tính gây tranh cãi. Ví dụ, có một ai đó gởi tới New York Times một bài nói rằng vụ khủng bố ngày 11/9 là không có thật, chắc chắn tờ báo này sẽ không đăng. Nếu bài lập luận vụ 11/9 là do âm mưu của chính phủ Mỹ, họ cũng sẽ không đăng nếu lập luận không có bằng chứng gì đi kèm mang tính thuyết phục. Giả thử có ai gởi tới một tờ báo của Israel nói rằng vụ tàn sát người Do Thái là chuyện tưởng tượng, làm sao tờ báo này chịu đăng. Là tờ báo của một nước thứ ba, BBC càng phải thận trọng trong việc này.

Từ đó mới thấy cái sai thứ năm của BBC là thiếu tính mục đích trong xử lý bài vở. Báo chí phương Tây rất tự do trong đưa tin, điều đó đã rõ nhưng tự do không có nghĩa tờ báo không có chủ kiến. Dù gọi là chủ kiến, chủ đích hay “tôn chỉ mục đích”, nó là định hướng cho tờ báo để hành xử trong công việc hàng ngày. Phương châm (motto) của BBC là “Nation shall speak peace unto Nation” (đại ý nhấn mạnh mục đích khuếch trương hòa bình giữa các quốc gia). Bây giờ nhìn lại cái phương châm này, không biết Ban tiếng Việt của BBC có chột dạ không nhỉ. BBC là đài của Anh, tự nhiên đăng bài của một người khẳng định “Việt Nam vẫn luôn là một phần của Trung Quốc” thì sao gọi là khuếch trương hòa bình được nhỉ. Mục đích của việc đăng một bài như thế là gì, nhìn ở góc độ nghề nghiệp, tôi không thể nào hiểu nổi.

Còn nhiều cái sai nữa như cách đính chính trên báo điện tử, cách đính chính cho trọn vẹn, cách biên tập, cách xử lý bài phản hồi… nhưng như tôi đã nói ở đầu bài, đây là những lỗi ai cũng có thể mắc phải (có người viết bài này trong số đó). Vấn đề là rút ra bài học để sau này khỏi sai và trước mắt để xử lý cái sai của mình cho nghiêm túc và có thiện ý để lấy lại uy tín cho mình.

Thứ Tư, 14 tháng 4, 2010

Công - tư!

Công - tư!

Tháng 7 đến sẽ có nhiều thay đổi nhân sự ở các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Ấy là do Nghị định 25/2010 của Chính phủ quy định các công ty nhà nước sắp tới khi chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì thành viên Hội đồng thành viên “không là cán bộ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước”.

Trước hết nói về tên gọi. Theo Luật Doanh nghiệp, công ty cổ phần thì có Hội đồng quản trị, công ty trách nhiệm hữu hạn thì có Hội đồng thành viên. Hiện nay các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đều tổ chức theo cơ cấu Hội đồng quản trị nên sắp tới, khi chuyển đổi tất cả sẽ phải đổi thành Hội đồng thành viên.

Với quy định thành viên Hội đồng thành viên “không là cán bộ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước”, những cán bộ nhà nước đang là bộ trưởng hay thứ trưởng được cử kiêm nhiệm các chức vụ như Chủ tịch, ủy viên Hội đồng quản trị các tập đoàn, tổng công ty sẽ phải từ nhiệm một trong hai vai trò. Ví dụ, tháng 10 năm ngoái, ông Lê Dương Quang, Thứ trưởng Bộ Công Thương được cử kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) nhưng tháng 7 năm nay sẽ không còn kiêm nhiệm như vậy được nữa. Điều đáng ngạc nhiên là truy cập vào trang web của TKV vào cuối tuần trước, trong phần “Tổ chức bộ máy” vẫn thấy ghi ông Đoàn Văn Kiển làm Chủ tịch Hội đồng quản trị tập đoàn này!

Riêng Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước không rõ có được xem là ngoại lệ hay không vì hiện nay ban lãnh đạo tổng công ty này gồm nhiều cán bộ kiêm nhiệm như ông Vũ Văn Ninh, Bộ trưởng Bộ Tài chính (kiêm nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị), ông Đỗ Hữu Hào, Thứ trưởng Bộ Công Thương; ông Cao Viết Sinh, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch-Đầu tư; ông Trần Văn Hiếu, Thứ trưởng Bộ Tài chính – tất cả đều đang kiêm nhiệm làm ủy viên Hội đồng quản trị.

Hàng loạt trường hợp tương tự như vậy sẽ phải giải quyết trước tháng 7-2010 tại nhiều tổng công ty khác, kể cả tổng công ty trực thuộc bộ hay tỉnh, thành phố.

* * *

Chuyện một quan chức phát biểu “một đất nước nghèo mà bỏ ra cả tỷ đô-la để nhập điện thoại iPhone là không cần thiết” đã được chứng minh không chính xác. Ở đây không bàn đến các con số nữa. Vấn đề là một khi phát hiện những bất cập trong thực tế (nếu có thật), giả dụ việc nhập khẩu các mặt hàng đắt tiền như điện thoại hạng sang, xe hơi giá tiền tỷ, máy bay tư nhân… điều phải làm là các cơ quan hành chính đề xuất biện pháp giải quyết như đánh thuế tiêu thụ đặc biệt. Quốc hội là nơi cân nhắc để phê chuẩn hay bác bỏ những sửa đổi luật lệ hiện hành. Khi luật lệ chưa thay đổi thì bộ máy hành chính không thể can thiệp, bất kể độ “bức xúc” có cao đến đâu.

Nhưng có nhiều trường hợp nếu cứ vin vào luật lệ hiện hành để “bao che” cho cấp dưới làm bậy thì quan chức cũng đang làm sai.

Khi công luận phát hiện ông Nguyễn Hải Châu, Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học, Bộ Giáo dục & Đào tạo (GD&ĐT) đứng tên chủ biên chừng 18 cuốn sách tham khảo ôn thi đủ các môn từ Toán, Lý đến Sử, Văn… đại diện của Bộ vẫn chống chế rằng đây là việc làm cá nhân không liên quan gì đến Bộ và xét theo Luật Xuất bản thì không có gì sai cả.

Tại sao lại sử dụng Luật Xuất bản để biện minh? Tại sao không xét đến các quy định sẵn có về việc cấm lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tư lợi cá nhân? Câu khẳng định “không có yêu cầu nào [từ Bộ] bảo các em dùng sách tham khảo” cũng không chính xác. Trong công văn số 1556 gởi các sở GD&ĐT, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học đã yêu cầu “Tiếp tục nghiên cứu quán triệt tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng chương trình THPT …”. Và ông Nguyễn Hải Châu đứng tên tác giả các tài liệu này cũng như nhiều sách tham khảo mang tựa đề gần gần giống như vậy. Tình hình những năm trước cũng vậy, ví dụ năm 2008, Vụ Giáo dục Trung học đề nghị các Sở “thông báo để các trường PTTH hướng dẫn giáo viên và học sinh lớp 12 đăng ký mua và sử dụng tài liệu ôn tập nói trên”.

Ngày xưa, người ta đã từng dặn nhau, đi qua ruộng dưa đừng cúi xuống sửa giày; đi qua vườn đào đừng đưa tay ngả mũ. Ấy là dặn nhau ý tứ trong hành xử, đừng để thiên hạ nghi ngờ trong bất kỳ tình huống nào. Đằng này sự việc đã rõ, nếu không xử lý nghiêm làm sao điều khiển được bộ máy?

Thứ Ba, 13 tháng 4, 2010

Tài trợ tín dụng là gì?

Tài trợ tín dụng là gì?

Đọc tít “Mỹ tài trợ 200 triệu USD khai thác bô-xít Lâm Đồng”, rất dễ hiểu nhầm là chính phủ Mỹ bỏ ra 200 triệu đô-la hỗ trợ cho dự án khai thác bauxite ở Lâm Đồng. Hóa ra không phải.

Đọc xuống ở dưới, với câu “ký kết thỏa thuận tài trợ vốn cho dự án Tổ hợp bô-xít Lâm Đồng trị giá 200 triệu USD trong thời hạn 13 năm giữa Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và Citibank”, cũng dễ hiểu nhầm là ngân hàng Citibank cho tập đoàn này vay 200 triệu đô-la. Cũng không chính xác.

Tài trợ vốn hay chính xác hơn, tài trợ tín dụng ở đây là thu xếp vốn vay cho một dự án rồi lấy tiền thu được từ dự án đó để trả lại nợ.

Như vậy Citibank đồng ý đứng ra làm đầu mối thu xếp khoản vốn vay 200 triệu đô-la cho Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, chứ không nhất thiết họ là nơi cho vay. Họ sẽ làm dự án, đưa ra các con số thu chi, rồi thuyết phục các nguồn có khả năng cho vay như các tổ chức tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu của các nước, để những nơi này chịu bỏ tiền ra. Đổi lại dự án phải mua máy móc thiết bị của nước cấp tài trợ tín dụng và thông thường bản thân máy móc thiết bị đó trở thành vật thế chấp cho khoản vay. Trong trường hợp này, khoản vay còn được sự bảo lãnh của Bộ Tài chính Việt Nam và sự hỗ trợ của Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư và Xuất khẩu Nhật bản. Citibank đứng giữa để nhận phí dịch vụ thôi chứ không phải họ cho vay 200 triệu đô-la cho dự án bauxite Lâm Đồng.

Chủ Nhật, 11 tháng 4, 2010

Kiện tụng quanh việc ra đời Facebook

Kiện tụng quanh việc ra đời Facebook

Những tình tiết thú vị chung quanh sự ra đời mạng xã hội nổi tiếng Facebook do tờ Silicon Alley Insider tiết lộ sau cuộc điều tra kéo dài hai năm trời.

Trong kinh doanh, tranh chấp về quyền sở hữu ý tưởng kinh doanh xảy ra thường xuyên nhưng với một mạng xã hội lớn như Facebook, có đến 400 triệu người sử dụng thường xuyên, được định giá cỡ 5-10 tỷ đô-la Mỹ thì ý tưởng khai sinh Facebook ắt có giá hàng chục triệu đô-la.

Chính thức mà nói, Facebook do cậu sinh viên năm hai trường đại học Harvard tên Mark Zuckerberg, lúc đó mới 19 tuổi thành lập vào ngày 4-2-2004. Chỉ một tuần sau đó, ba sinh viên Harvard khác cáo buộc Mark ăn cắp ý tưởng của họ. Việc cáo buộc bùng nổ thành một vụ kiện um xùm, kéo dài trong mấy năm liền. Đến năm 2008, hai bên thỏa thuận dàn xếp ngoài tòa án, ba sinh viên Harvard nhận một khoản tiền đền bù lên đến 65 triệu đô-la mặc dù Mark khẳng định anh không ăn cắp ý tưởng của ai cả. Đây là câu chuyện vào những ngày đầu tiên đó, theo tường thuật của Silicon Alley Insider .

Để tôi làm thử xem sao

Mùa thu năm 2003, hai anh em Cameron Winklevoss, Tyler Winklevoss cùng người bạn tên Divya Narendra, tất cả đang là sinh viên năm cuối đại học Harvard đang cần tìm một lập trình viên chuyên thiết kế trang web để biến một ý tưởng của họ thành hiện thực. Đó là ý tưởng của Divya nảy sinh vào năm 2002: làm một mạng xã hội cho sinh viên và cựu sinh viên Harvard, dự tính đặt tên là HarvardConnections.com.

Trước đó họ đã nhờ một sinh viên Harvard khác nhưng anh này từ chối và giới thiệu Mark Zuckerberg, một sinh viên năm hai nhưng đã khá nổi tiếng vì đã xây dựng trang web Facemask. Facemask từng đẩy Mark vào chỗ gặp phiền toái vì trang web này chuyên lấy hình ảnh của sinh viên Harvard từ website chính thức của nhà trường rồi xếp từng cặp ảnh với nhau. Người xem có thể bình chọn ảnh của người nào là hấp dẫn hơn, rồi tổng hợp thành danh sách sinh viên Harvard theo mức độ hấp dẫn theo đánh giá của bạn bè. Facemask ngay lập tức trở thành một hiện tượng trong giới sinh viên, sau hai tuần có đến 22.000 lượt bình chọn. Trong lúc đó nhiều sinh viên Harvard khác nổi giận, lôi Mark ra trước hội đồng kỷ luật của sinh viên vì tội vi phạm an ninh mạng, vi phạm bản quyền, vi phạm tính riêng tư của cá nhân.

Lúc được giới thiệu làm ăn với ba người định khai sinh HarvardConnections, Mark đồng ý hẹn gặp. Tối ngày 30-11-2003, bốn người hẹn nhau tại một nhà ăn trong khuôn viên trường; Cameron, Tyler và Divya lần lượt trình bày ý tưởng của mình – xây dựng trang web HarvardConnections, lúc đầu giới hạn cho những ai có địa chỉ email harvard.edu tham gia và sau đó mở rộng ra các trường đại học ở Mỹ. Mark tỏ vẻ thích thú với ý tưởng này.

Ngay tối hôm đó, Mark gởi email cho ba người, nói rằng đã đọc những tài liệu ba người vừa gởi và vì cấu trúc trang web không phức tạp lắm nên hứa sẽ bàn tiếp sau khi phác thảo xong hình hài trang web ngay tối mai. Ngày hôm sau, Mark gởi thư tiếp cho nhóm HarvardConnections, cho biết đã soạn xong hai trang đầu, phần đăng ký làm thành viên, đang sửa lỗi và sẽ thông báo tiếp khi trang web hoạt động hoàn chỉnh.

Ngược lại với hai thư ban đầu này, chỉ mấy ngày sau đó, thư của Mark chuyển giọng, không còn sự hào hứng thực hiện ngay ý tưởng đã bàn mà tìm mọi lý do trì hoãn, như bận học, bận làm bài tập. Mọi nỗ lực liên lạc của nhóm với Mark không thành công và cuối cùng đến ngày 8-1-2004, Mark gởi thư cáo lỗi với các lý do bận rộn như từng viết và nói thêm là trang web chưa có đủ chức năng cần thiết để hấp dẫn người dùng.

Nghiên cứu các thư từ email trao đổi trong thời gian này, tờ Silicon Alley Insider kết luận đồng ý với cáo buộc của nhóm HarvardConnections là Mark Zuckerberg tìm cách trì hoãn việc phát triển mạng HarvardConnections để anh ta tự mình xây dựng một mạng tương tự và tung ra trước nhằm cạnh tranh. Tờ báo này cho biết các email nói trên thì đã được công khai từ lâu sau vụ kiện; kết luận của họ còn dựa vào những trao đổi tin nhắn (chat) giữa Mark với bạn bè người thân trong giai đoạn này. Như trao đổi giữa Mark và bạn đồng lớp, người sau này trở thành đồng sáng lập Facebook - Eduardo Saverin vào ngày 7-12-2003.

Họ chọn nhầm người – haha

Cựu tổng giám đốc PayPal thường được cho là nhà đầu tư đầu tiên bỏ tiền vào Facebook với khoản tiền 500.000 đô-la vào tháng 9-2004 nhưng thật ra người tài trợ cho Mark ngay từ đầu là Eduardo. Đây là một sinh viên giàu có hay ít nhất bề ngoài của anh ta cho mọi người cảm giác như thế. Eduardo đồng ý bỏ ra 15.000 đô-la để đổi lại 30% cổ phần trong công ty Facebook sẽ thành lập. Và những ngày đầu khởi nghiệp đó, hai bên trao đổi tin nhắn thường xuyên. Mark kể cho Eduardo chuyện ba người trong nhóm HarvardConnections mời tham gia như thế nào, xong rồi viết: “Nhưng họ đã chọn sai, haha. Họ chọn chính tớ để làm dự án này. Cho nên tớ sẽ trì hoãn để mạng này không thể làm xong cho đến khi cái dự án facebook ra đời”.

Như thế, tờ Silicon Alley Insider kết luận, trong vòng một tuần sau khi gặp nhóm HarvardConnections, Mark đã có ý tưởng tự mình phát triển một mạng xã hội tương tự và cũng đã đề ra kế hoạch ngăn cản đối thủ: trì hoãn việc lập trình dù được thuê thực hiện.

Một vài tuần sau đó, Mark lại họp với bộ ba Cameron, Tyler và Divya nhưng không phải ở nhà ăn mà là khu nội trú của Mark. Phòng của Mark có hành lang hẹp nối với các phòng khác. Khi Cameron và Tyler ngồi xuống trong phòng của Mark, Cameron thoáng thấy ngoài hành lang một tấm bảng trắng có ghi dòng chữ Harvard Connection, loại bảng mà nhà lập trình thường dùng để vẽ sơ đồ ý tưởng trang web. Nhưng khi Cameron đứng lên bước ra để nhìn cho rõ thì Mark yêu cầu Cameron không được vào hành lang.

Mark cũng thường xuyên trao đổi tin nhắn với một người bạn khác tên Adam D'Angelo. Cả hai học trường nội trú Phillips Exeter Academy và trong thời gian này, hai người hợp tác viết phần mềm nghe nhạc MP3 Synapse, có khả năng học sở thích của người dùng và đưa ra gợi ý thông minh. Tốt nghiệp trung học, Mark vào Harvard còn Adam vào trường Cal Tech nhưng hai người duy trì liên lạc thường xuyên. Sau này Adam vào làm Kỹ sư trưởng cho Facebook. Đọc những trao đổi qua chat giữa hai người, Silicon Alley Insider một lần nữa kết luận Mark song song làm hai dự án, Facebook của riêng mình và cố ý trì hoãn HarvardConnections để tiêu diệt đối thủ tiềm năng. Mặc dù Adam khuyên Mark nên từ chối thẳng nhóm HarvardConnections, Mark cho rằng nhóm này rất có tiềm năng, cả về lập trình và tài chính hỗ trợ nên ngại nếu cả hai ra đời cùng lúc thì tất cả đều thất bại.

Tớ sẽ chơi họ

Ngày 14-1-2004, Mark lại họp với nhóm HarvardConnections, có vẻ như lần gặp nhau cuối cùng. Lúc này Mark chưa làm xong Facebook nhưng đang nỗ lực hết sức, lấy tiền từ Eduardo để thuê máy chủ, đăng ký tên miền thefacebook.com… Vấn đề còn lại là có nên nói thẳng cho ba người kia chưa hay vẫn lần lữa chờ cho xong mạng Facebook. Mark đã nỏi ý kiến của một người bạn – bạn khuyên “không nên làm điều xấu cho ai cả”. Mark vẫn khẳng định: “Tớ sẽ chơi họ”. Lần gặp ngày 14-1, Mark vẫn chưa từ chối hẳn dự án HarvardConnections trong khi nhấn mạnh anh không có thời gian làm ngay. Mark cũng không tiết lộ gì về Facebook.

Ngày 4-2-2004, Mark công khai dự án Facebook, lúc đó có địa chỉ thefacebook.com; ngày 10-2-2004, Cameron gởi thư cho Mark, cáo buộc anh vi phạm hợp đồng và ăn cắp ý tưởng. Cuối tháng 5-2004, sau khi làm việc với hai nhà lập trình mới, nhóm HarvardConnections cũng cho ra đời mạng ConnectU, kết nối 15 trường với nhau nhưng không đạt được bất kỳ thành công nào.

Thực tế

Thực tế thì sau khi Mark khai sinh Facebook, mạng xã hội này đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng trong giới sinh viên. Hè năm 2004, Mark bỏ học, chuyển sang California để điều hành Facebook toàn thời gian. Đến tháng 8-2005, mạng xã hội chính thức chuyển địa chỉ từ thefacebook.com sang facebook.com sau khi mua lại địa chỉ này với giá 200.000 đô-la. Mọi chuyện sau đó về sự phát triển kỳ diệu của Facebook thì ai cũng đã biết. Tháng 10-2007, Microsoft cho biết họ đã mua 1,6% cổ phần Facebook với giá 240 triệu đô-la, tức tính ra tổng giá trị của Facebook là chừng 15 tỷ đô-la Mỹ. Cho đến nay Mark vẫn chưa bán Facebook cho ai và cũng chưa chịu đưa Facebook niêm yết trên thị trường chứng khoán. Thông tin mới nhất cho rằng doanh thu hàng năm của Facebook có thể lên đến 1 tỷ đô-la nhờ quảng cáo.

Về vụ kiện tụng chung quanh những ngày đầu ra đời Facebook, tờ Silicon Alley Insider cho rằng không có bằng chứng giấy trắng mực đen nào về hợp đồng hợp tác giữa Mark Zuckerberg và nhóm HarvardConnections. Những ràng buộc nếu có cũng chỉ ở dạng email hay chat mà tòa án từng kết luận chỉ là “tán gẫu trong khu nội trú”. Cùng lúc với việc tiếp cận ý tưởng của nhóm HarvardConnections, Mark cũng đã thai nghén ý tưởng cho mạng xã hội Facebook, dù hướng đến cùng một đối tượng nhưng cách triển khai có nhiều khác biệt. Tuy nhiên, Mark đã cố ý trì hoãn việc thực hiện mạng HarvardConnections với ý đồ cạnh tranh. Vì thế Silicon Alley Insider kết luận khoản tiền bồi thường 65 triệu đô-la mà Facebook trả cho ba người Cameron, Tyler và Divya là xứng đáng, thậm chí còn quá hào phóng vì thời gian diễn ra tranh cãi này chỉ kéo dài trong khoảng 2 tháng trong khi Mark đã mất đến 6 năm mới xây dựng Facebook được như ngày nay.

Tuy vậy, Silicon Alley Insider cũng chê trách Mark đã sử dụng những chiêu thức không hay ho gì khi sử dụng thông tin truy cập Facebook để xâm nhập tài khoản của các phóng viên tờ báo sinh viên của trường Harvard khi họ đang điều tra vụ kiện nói trên. Nhưng đây là một câu chuyện khác, sẽ được lược thuật ở một dịp khác.

Thứ Tư, 7 tháng 4, 2010

Nhiễu thông tin

Nhiễu thông tin

Một khi xảy ra tình trạng nhiễu thông tin, việc trước tiên cần làm là xem lại nguồn tin gốc.

Cuối tuần trước Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho đăng tải trên website của mình tin “Dừng cung cấp thông tin liên quan khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu”. Nội dung tin cho biết, ngày 30-3-2010, NHNN có văn bản gởi các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đề nghị dừng cung cấp thông tin liên quan khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.

Ngay sau đó, một số trang tin ở nước ngoài bình luận theo hướng NHNN từ chối nhận thông tin với ý muốn che giấu thông tin, rằng NHNN không muốn nhận những dự báo gây nhiễu như một dự báo của một ngân hàng nước ngoài về việc lãi suất cơ bản ắt phải tăng trong thời gian tới…

Làm gì có chuyện đó! Nguyên do là vào tháng 9-2008, NHNN có đề nghị các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cung cấp các thông tin về diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới. Tần suất cung cấp thông tin là trước 11g30 thứ Sáu hằng tuần, bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt.

Đây là một gánh nặng sự vụ hành chính nên khi tình hình kinh tế thế giới ổn định, NHNN ắt phải dừng yêu cầu nói trên mà nghe đâu các ngân hàng nước ngoài đã thực hiện tốt.

Còn chuyện các ngân hàng thường có các báo cáo phân tích, dự báo về tình hình kinh tế Việt Nam là do họ thực hiện cho khách hàng của họ, không liên quan gì đến yêu cầu nói trên. NHNN có hay không có yêu cầu, họ vẫn sẽ tiếp tục cung cấp thông tin cho khách hàng, chủ yếu là các quỹ đầu tư. Chuyện các báo cáo này được tung ra bên ngoài là chuyện khác nữa.

Rõ ràng một chủ trương bình thường nhưng thông tin không khéo hóa ra phản tác dụng, gây nhiễu thông tin.

* * *

Một thông tin khác mới nhìn qua, có vẻ như bị nhiễu nhưng thật ra là do chưa làm đúng nguyên tắc. Cuối tuần trước, các báo đưa tin Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân thôi kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo và đã bàn giao công việc lãnh đạo bộ cho Thứ trưởng thường trực Phạm Vũ Luận và các thứ trưởng khác.

Sau đó cũng có báo đăng tin, rằng Văn phòng Chính phủ cho biết họ chưa nhận được thông tin chính thức về việc Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục-Đào tạo.

Theo nguyên tắc, Quốc hội là nơi phê chuẩn việc bổ nhiệm hay miễn nhiệm chức danh bộ trưởng theo đề nghị của Thủ tướng. Khi nào Quốc hội chưa họp, chưa bỏ phiếu thì ông Nhân vẫn là Bộ trưởng Bộ Giáo dục-Đào tạo, phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về mọi mặt cho nền giáo dục nước nhà. Chẳng hạn, nếu trong kỳ họp sắp tới, Quốc hội bàn đến báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đối với giáo dục đại học mà Ủy ban thường vụ Quốc hội vừa đưa ra lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu giáo dục thì ông Nhân phải ra giải trình với tư cách là bộ trưởng. Việc phân công cho các thứ trưởng, kể cả Thứ trưởng thường trực Phạm Vũ Luận chỉ là công việc nội bộ, tạm thời, không thể mang tính chính thức.

* * *

Chuyện nhiễu thông tin sau cùng được đề cập ở đây liên quan đến “dự án Gởi tới mai sau”. Đầu tiên là phản ứng không đồng tình của nhiều nhà văn hóa về dự án lựa chọn 1.000 vật phẩm tiêu biểu có giá trị đặc trưng cho mỗi địa phương và cả nước, bỏ vào trong thiết bị lưu giữ, chôn xuống lòng đất để gửi tới các thế hệ mai sau. Tuần trước, ông Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy Hà Nội khẳng định không thực hiện dự án này mà ông cho chỉ là ý tưởng của cá nhân sau khi phê bình Sở Văn hóa-Du lịch-Thể thao Hà Nội triển khai dự án khi chưa có sự phê duyệt của thành phố.

Thế nhưng ban tổ chức dự án cãi lại, họ thực hiện dự án theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, cơ sở pháp lý của dự án là các quyết định của Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng - Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long ký phê duyệt Đề cương các hoạt động tiến tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội và của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký phê duyệt Chương trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội năm 2010.

Cái này thì thật sự là nhiễu thông tin. Ở đây chúng ta không bàn đến việc dự án “Gởi tới mai sau” có ý nghĩa hay chỉ là chuyện vô bổ mà chỉ bàn đến khía cạnh phát ra thông tin từ chính quyền. Nếu dự án chính thức nằm trong chương trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội thì chính quyền Hà Nội phải biết chứ không thể cho đó là ý tưởng cá nhân hay dự án chưa có sự phê duyệt. Ngược lại, ban tổ chức dự án nếu cho rằng quy trình thực hiện và đề cương dự án đã được phê duyệt từ bốn năm trước thì phải chứng minh bằng giấy tờ và phải cho biết vì sao bốn năm qua không triển khai gì cả. Một thành phần nhỏ trong chương trình kỷ niệm mà đã nhiễu thông tin như vậy thì thật khó lòng yên tâm khi triển khai hàng chục dự án lớn khác.

Bài đăng phổ biến