Thứ Năm, 18 tháng 10, 2007

Giai Nobel Kinh te 2007

Nobel Kinh tế 2007
Lý thuyết trò chơi “đảo ngược”

Nguyễn Vạn Phú
Ba nhà khoa học người Mỹ nhận giải Nobel Kinh tế năm nay, Leonid Hurwicz, Eric Maskin và Roger Myerson xuất thân là nhà toán học ứng dụng. Tuy thế những nghiên cứu của họ đã có tác động lớn đến kinh tế học vi mô và được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lãnh vực.
Những ai có nghiên cứu về kinh tế học đều biết đến khái niệm “bàn tay vô hình” của Adam Smith, cổ xúy cho các nguyên tắc thị trường tự do. Nhưng “bàn tay vô hình” chỉ phát huy tác dụng ở một thị trường hoàn hảo, nơi thông tin được cung cấp đầy đủ. Trong trường hợp thị trường không hoàn hảo, giao dịch có thể thất bại vì người mua, người bán, do thiếu thông tin, có thể đưa ra giá không bên nào chấp nhận được. Ví dụ, một hợp đồng bảo hiểm ốm đau sẽ thất bại nếu đưa ra mức bồi thường quá thấp hay ngược lại, cũng thất bại nếu đưa ra điều kiện quá dễ dàng vì bị lạm dụng. Người bán luôn có động cơ đưa ra giá cao nhất có thể đưa và người mua luôn có động cơ ngược lại, cả hai bên lại không đủ thông tin của nhau (tình trạng thông tin bất đối xứng) nên kết quả giao dịch có thể không hoàn hảo hay thậm chí thất bại. Nghiên cứu của ba người nhận giải Nobel năm nay - gọi chung là “lý thuyết thiết kế cơ chế” đã giúp người ta hiểu được các cơ chế cần có để tìm một sự cân bằng tối ưu giúp thị trường hoạt động.
Nghiên cứu về thiết kế cơ chế là một phân ngành kinh tế học trừu tượng, sử dụng các mô hình và công thức toán học phức tạp. Các tạp chí kinh tế nước ngoài, khi đưa tin về giải Nobel Kinh tế năm nay, đều phải dựa vào các ví dụ được đơn giản hóa. Một trong những cơ chế được lấy làm ví dụ là đấu giá. Giả thử một bức tranh của danh họa Picasso được bán đấu giá, cơ chế đấu giá như thế sẽ buộc người tham gia phải phát ra thông tin - thông qua các mức đấu giá - về giá trị bức tranh theo đánh giá của từng người. Như vậy, vai trò của các nhà khoa học này là sử dụng toán học để phân tích và mô tả quy trình “thúc đẩy người giao dịch cung cấp thông tin thật”.
Có lẽ chúng ta còn nhớ giải Nobel Kinh tế năm 2005 (trao cho Thomas Schelling và Robert Aumann) về các công trình ứng dụng lý thuyết trò chơi. Trước đó, John Nash, mà cuộc đời được đưa lên màn ảnh qua phim “A Beautiful Mind” cũng được trao giải Nobel Kinh tế năm 1994 nhờ lý thuyết trò chơi.
“Thiết kế cơ chế” là một dạng lý thuyết trò chơi đảo ngược. Trong khi lý thuyết trò chơi tìm hiểu xem cá nhân sẽ hành xử như thế nào trong những hoàn cảnh nhất định khi có những tác nhân nhất định thì lý thuyết “thiết kế cơ chế” tìm cách thiết kế các hoàn cảnh và các tác nhân sao cho đạt được cách hành xử mong muốn.
Alvin Roth, một giáo sư kinh tế tại Đại học Harvard giải thích trên tờ Wall Street Journal: “Có thể nói trước khi có lý thuyết trò chơi hiện đại, các nhà kinh tế học nhìn vào thị trường như nhà thực vật học nhìn vào cây cảnh, tìm cách nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên. Thiết kế cơ chế nhìn nhận rằng thị trường là do con người xây dựng nên để bắt đầu tự hỏi: chúng ta có thể làm gì hay không làm được gì với thị trường, cách nào là tốt nhất để tác động lên nó”.
Vì thế thiết kế cơ chế được ứng dụng trong rất nhiều lãnh vực: từ chính sách quản lý nhà nước, phân bổ nguồn lực, chính sách thuế đến cơ chế đấu giá, lập hợp đồng bảo hiểm. Nói chung lý thuyết của các nhà kinh tế học được giải Nobel năm nay có thể sử dụng làm cơ sở giúp xác định lúc nào thị trường hay cơ chế nào có tác dụng cung cấp kết quả mong muốn. Ví dụ, chính phủ Anh đã thiết kế một cơ chế tối ưu khi bán đấu giá giấy phép khai thác mạng điện thoại di động 3G năm 2000, thu về cho ngân sách hơn 22 tỷ bảng Anh. Cơ chế này buộc các hãng tham gia phải đưa ra giá phản ánh được giá trị thật của giấy phép và ngăn cản họ liên kết với nhau để ép giá và hưởng lợi.
Giáo sư Leonid Hurwicz (Đại học Minnesota) năm nay 90, là người lớn tuổi nhất đoạt giải Nobel từ trước đến nay. Ông là người khởi sự nghiên cứu về lý thuyết thiết kế cơ chế từ những năm 1950. Giáo sư Eric Maskin, 57 tuổi, hiện đang giảng dạy tại Học viện Nghiên cứu Cao cấp, Đại học Princeton, là người nghiên cứu sâu về thiết kế tối ưu cho các hình thức đấu giá. Riêng Roger Myerson, 56 tuổi, hiện là giáo sư của Đại học Chicago, là một trong những tác giả của một định lý quan trọng của lý thuyết thiết kế cơ chế. Mặc dù được báo chí gọi là giải Nobel Kinh tế, tên chính thức của giải này là Giải thưởng Tưởng niệm Nobel về Khoa học Kinh tế, không liên quan trực tiếp đến các giải Nobel khác vì do ngân hàng trung ương Thụy Điển tổ chức. Trị giá giải năm nay vào khoảng 1,5 triệu đô-la Mỹ, sẽ được trao chính thức vào ngày 10-12.




Windows:
“Thiết kế cơ chế” là một dạng lý thuyết trò chơi đảo ngược. Trong khi lý thuyết trò chơi tìm hiểu xem cá nhân sẽ hành xử như thế nào trong những hoàn cảnh nhất định khi có những tác nhân nhất định thì “thiết kế cơ chế” tìm cách thiết kế các hoàn cảnh và các tác nhân sao cho đạt được cách hành xử mong muốn.


Box
Các giải Nobel khác:
+ Hòa bình: Trao cho cựu phó tổng thống Mỹ Al Gore và Ủy ban liên chính phủ về thay đổi khí hậu của Liên hiệp quốc về những nỗ lực đối phó với tình trạng thay đổi khí hậu.
+ Văn học: Nữ văn sĩ người Anh Doris Lessing.
+ Hóa học: Nhà khoa học người Đức Gerhard Ertl nhờ công trình nghiên cứu về phản ứng hóa học trên bề mặt rắn.
+ Vật lý: Nhà khoa học người Pháp Albert Fert và đồng sự người Đức Peter Grunberg nhờ khám phá công nghệ đọc dữ liệu trên ổ cứng.
+ Y học: Mario Capecchi (người Mỹ gốc Ý), Martin Evans (người Anh) và Oliver Smithies (người Mỹ gốc Anh) cho các nghiên cứu về công nghệ gen.

Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2007

Nha bao va thue

Nhà báo và thuế
Tạp chí "Nghề báo" số mới nhất (9-2007) có bài "Chuyện tiền của các báo". Đoạn đầu có một câu rất ... phi kinh tế.
"Mức thuế 13-15% chỉ là để áp dụng cho các cơ quan báo chí làm ăn có lãi thôi, còn những tờ báo không có lãi thì phải được miễn luôn". Đây là phát biểu của Tổng biên tập báo Công An Nhân Dân. Không biết ông Hữu Ước có nói vậy không hay phóng viên ghi sai vì đã không có lãi thì làm gì có chuyện phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp!

Thứ Hai, 27 tháng 8, 2007

Ky luc chup anh

Làm báo khó tránh sai sót. Vấn đề là làm sao hạn chế sai sót đến mức thấp nhất. Vì thế xin nêu một số sai sót trên các tờ báo lớn trong thời gian gần đây để cùng tránh những sai sót tương tự.
1. Chụp được 2 triệu bức ảnh
Báo Sài Gòn Giải Phóng (26/8/2007) đưa tin:
Hội Nhà báo - CLB Ảnh báo chí TPHCM đã tổ chức chuyến đi xuyên Việt cho các thành viên có điều kiện đi chụp ảnh dài ngày. Xuất phát từ Hội Nhà báo TPHCM ngày 10-3 và trở về ngày 10-8, với sự tài trợ của Ngân hàng cổ phần Thương mại Sài Gòn và shop thời trang Sóng Nhạc, hai thành viên CLB Ảnh Báo chí TP là Hoàng Chí Hùng (PV Tạp chí Điện ảnh TP) và Bùi Ngọc Tuấn (PV Báo Pháp luật TP) đã kết thúc chuyến đi an toàn và họp mặt tại Hội Nhà báo chiều 24-8 (ảnh).Hai phóng viên đã thu hoạch 2 triệu bức ảnh qua 64 tỉnh thành trong chuyến đi xuyên Việt với 4 đề mục được CLB đề ra là: phong cảnh đất nước; các di tích lịch sử cách mạng; các di tích lịch sử được Nhà nước công nhận; phong tục tập quán của 54 dân tộc sinh sống trên đất Việt. Trải qua 162 ngày với chiều dài chặng đường khoảng 30.000km, bằng xe ô tô tự lái và được sự giúp đỡ của hội nhà báo các tỉnh thành, các đồn biên phòng, cửa khẩu biên giới…, hai phóng viên đã vượt qua nhiều khó khăn và kết thúc chuyến đi có thể lập kỷ lục về thời gian, chiều dài chặng đường, số lượng ảnh chụp được… trong giới ảnh báo chí.
Đọc tin này chúng ta sẽ thấy những điểm phi lý rất dễ phát hiện:
- Trong 162 ngày, hai người chụp được 2 triệu bức ảnh, tức bình quân mỗi ngày chụp được 12.346 tấm ảnh. Một con số không tưởng.
- Cũng trong 162 ngày, hai người đi được 30.000km, tức mỗi ngày phải đi chừng 185km và ắt phải đi vòng vòng vì lấy chỗ đâu mà đi.
2. Tạp chí Newsweek thông tin Bin Laden đã chết
Cũng báo Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 27/8/2007 đã đưa tin có tít như trên. Đây là một tít sai vì theo các báo nước ngoài tờ Newsweek làm hồ sơ về Bin Laden, trong đó có chi tiết: "US forces in Afghanistan came so close to discovering Osama bin Laden in the winter of 2004-2005 that his supporters were on the verge of killing him to prevent his capture, Newsweek reported."
Thế mà bản tin lại dịch thành: "Theo tạp chí Newsweek của Mỹ số ra ngày 26-8, bin Laden đã ra lệnh cho những thân cận giết y, trước khi lực lượng của Mỹ ập vào nơi trú ẩn của y trong mùa đông 2004-2005, tại một khu vực biên giới Afghanistan – Pakistan". Một bên là "suýt nữa" còn một bên là giết rồi. Và có lẽ dựa vào đó, người viết hay biên tập viên đã rút tít sai như trên.
(còn nữa)

Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2007

Wikipedia

Từ điển bách khoa “nhân dân”
Nguyễn Vạn Phú
Wikipedia là một hiện tượng lạ - trong vòng năm năm, trang web này đã trở thành một cuốn từ điển bách khoa lớn nhất thế giới với hàng chục ngàn người tình nguyện viết bài không công. Nhưng cũng từ cơ chế mở này, Wikipedia cũng chứa nhiều sai sót – như kiểu David Beckham là một thủ môn người Hoa sống ở thế kỷ 18 – gây nỗi hoài nghi vào sự thành công của mô hình “nhà nhà cùng viết từ điển bách khoa”.

Khởi đầu thuận lợi
Wikipedia được thành lập vào tháng Giêng năm 2001 như một thể nghiệm về tính dân chủ của mạng Internet. Thoạt tiên, một nhóm các chuyên gia về từ điển bách khoa làm việc cho công ty Bomis hợp tác với nhau tổ chức một dạng từ điển bách khoa trực tuyến dưới sự điều hành của trưởng nhóm Jimmy Wales. Sau khi tiêu của Bomis chừng 100.000 đô-la, Wales thành lập một tổ chức phi lợi nhuận để đảm trách dự án này chỉ với ba nhân viên chính thức. Thế nhưng Wikipedia lớn nhanh như thổi, với khoảng 1.000 người tình nguyện làm việc không ăn lương để quản lý website, thêm chừng 13.000 cộng tác viên thường xuyên lo chuyện biên tập chỉnh sửa nội dung. Cơ chế của Wikipedia là mở hoàn toàn, bất kỳ ai cũng có thể tham gia viết bài và sửa bài đã có. Nhóm Wikipedia chủ trương thông tin có thể tiến hóa theo thuyết Darwin để ngày càng tự hoàn thiện hơn. Họ cho rằng càng có nhiều người chỉnh sửa, những bài sau sẽ càng hay hơn, càng chính xác hơn bài trước.
Khoan nói đến tính chính xác, về mặt quy mô, suy nghĩ này là chính xác. Chỉ trong một thời gian ngắn, Wikipedia phát triển thành cuốn bách khoa đa ngôn ngữ có 2,6 tỷ bài viết bằng 200 thứ tiếng, mỗi tháng thu hút đến 2 tỷ lượt người vào xem. Chỉ tíng riêng tháng 12-2005, bản tiếng Anh có thêm 45.000 mục từ và con số ngày đang tăng ở mức độ 7% mỗi tháng. Đến nay bản tiếng Anh có trên 950.000 mục từ (nên nhớ cuốn Bách khoa toàn thư Britannica nổi tiếng chỉ có 120.000 mục từ). Thành công buổi đầu của Wikipedia là nhờ sự nhiệt tình của cộng tác viên khắp thế giới. Năm ngoái, độc giả tặng cho trang web này 1 triệu đô-la để bù đắp chi phí. Giai đoạn đầu cuốn từ điển “nhân dân” này được mọi người tin dùng vì thông tin khá chính xác. Một khảo sát của tạp chí Nature vào năm ngoái kết luận thông tin trên Wikipedia chỉ thua Britannica một chút thôi. Nature cho rằng mỗi mục từ chỉ có bình quân bốn lỗi thiếu chính xác so với ba lỗi trên Britannica. Một tạp chí tin học của Đức cho Wikipedia 3,6 điểm về tính chính xác so với 3,1 điểm cho Encarta của Microsoft. Gõ vào ô tìm kiếm của Wikipedia cụm từ “trận đánh Waterloo”, người ta sẽ đọc được những trang viết sống động về một sự kiện đánh dấu sự sụp đổ của Napoleon. Ngay cả những sự kiện nhỏ, những địa danh ít ai biết, những nhân vật chỉ nổi lên một thời cũng được đề cập.

Sai sót và bị lợi dụng
Sự đời lúc nào “ăn nên làm ra” cũng dễ sinh chuyện. Đầu tiên là trò đùa nghịch ngợm của nhiều người thiếu ý thức. Họ vào Wikipedia, chỉnh sửa tiểu sử của nhiều nhân vật nổi tiếng, biến David Beckham thành một thủ môn người Hoa sống vào thế kỷ 18, cho rằng chữ lót của Thủ tướng Anh Tony Blair là “Whoop-dee-do”, rằng thời trai trẻ ông này còn dán hình Adolf Hitler lên tường.
Loại phá phách này dễ bị phát hiện và trong thực tế, ít xuất hiện và mỗi lần xuất hiện đều bị độc giả xóa ngay. Jimmy Wales từng trả lời phỏng vấn báo chí rằng ban đầu nhóm sáng lập Wikipedia cứ tưởng trò đùa nghịch này sẽ làm họ đau đầu nhưng “hóa ra có nhiều người làm việc tốt hơn loại người phá hoại”.
Thế nhưng loại tin tặc bất ngờ nhất cho Wikipedia là các ông nghị trên điện Capitol Hill của Quốc hội Mỹ. Một số chính khách Mỹ đã cho “hiệu đính” tiểu sử của mình, như nhân viên nghị sĩ Marty Meehan xóa đi đoạn nói về lời hứa của ông này chỉ làm nghị sĩ trong bốn nhiệm kỳ, thêm đoạn khen ngợi các lần bỏ phiếu có trách nhiệm của ông ta. Nhân viên Thượng nghị sĩ Tom Harkin xóa nhiều đoạn thông tin bất lợi cho sếp còn nhân viên Thượng nghị sĩ Norman Coleman “đánh bóng” tiểu sử ông ta để hình ảnh Coleman ít “cấp tiến” hơn. Ngược lại, có người vào sửa tiểu sử của thượng nghị sĩ Tom Coburn, chêm thêm nhận xét ông này được bầu là ông nghị khó chịu nhất.
Trò này lan rộng đến nỗi ban quản lý Wikipedia phải khóa không cho các máy tính từ khu vực Quốc hội Mỹ truy cập trang web này nguyên một tuần vào tháng Giêng và thêm ba tiếng vào tháng 2 này.
Sự cố ầm ĩ nhất về Wikipedia xảy ra vào tháng 12-2005 khi nhà báo John Seigenthaler phát hiện mục từ về ông trên Wikipedia cáo buộc ông có liên quan đến vụ ám sát Tổng thống John Kennedy và cả người em - Bộ trưởng Tư pháp Mỹ Robert Kennedy. Hóa ra, đây là trò đùa của một người muốn lừa đồng nghiệp.
Nhiều lúc, Wikipedia là nơi diễn ra những tranh chấp mang tính tôn giáo hay chính trị. Ví dụ mục từ “Muslim” (Hồi giáo) hiện bị phá cả chục lần mỗi ngày, nhất là sau vụ báo chí Đan Mạch và một số nước khác đăng trang biếm họa về nhà tiên tri Mohamed. Mục từ Tony Blair cũng là nơi bị tấn công nhiều vì người đọc cứ vào bổ sung nghề của Tony Blair như là “bạn nối khố của George Bush”.
Với đại đa số thông tin khác trên Wikipedia, nhận xét của nhiều chuyên gia là nó “nhàn nhạt”, thiếu tính chuyên nghiệp. Sử gia Antony Beevor nhận xét: “Với các mục từ của Wikipedia, có cảm giác đọc không đã, không hẳn vì thiếu chính xác mà vì có nhiều câu chung chung, không thể bảo là sai nhưng cũng không ích lợi gì”.
Robert McHenry, cựu tổng biên tập Bách khoa toàn thư Britannica nhận xét: “Quan điểm của tôi là, trái với ý tưởng hoàn thiện liên tục của Wikipedia, rất dễ xảy ra chuyện bài tệ trở nên khá hơn, bài hay bị sửa thành ra dở và đại đa số bài ở mức thường thường bậc trung... Vấn đề ở chỗ người dùng bình thường khó lòng phân biệt bài đúng bài sai”.
Ngay chính Wikipedia cũng nói rõ điểm yếu của mình, xác nhận ngay trong mục từ “Wikipedia” rằng trang web này hiện phải đối mặt với nhiều vấn đề từ định kiến, dùng nguồn không thẩm quyền, khó kiểm chứng thông tin đến phá hoại, xâm phạm đời tư, cuồng tín và kiểm duyệt.
Có lẽ chỉ nên xem Wikipedia là nguồn thông tin tham khảo thô. Ý tưởng của Wikipedia là một ý tưởng tuyệt vời trong một thế giới hoàn hảo: mọi người cùng nhau chia sẻ thông tin, mỗi người đóng góp một phần, kể cả kiến thức, kinh nghiệm, ý tưởng, hình ảnh minh họa và liên kết đến trang web khác. Tuy nhiên, thế giới ngày nay vẫn còn nhiều kẻ phá hoại và nhiều người muốn dùng thông tin cho ý đồ lợi ích cá nhân. Wikipedia vì thế là một chỉ dẫn tốt nhưng người dùng phải tỉnh táo để kiểm chứng thông tin để chúng có thể thật sự hữu ích cho mình.


Box

Sẽ có nhiều loại Wiki khác
Từ thành công (dù cũng đầy tai tiếng) của Wikipedia, người ta đang dự tính cho ra đời nhiều loại Wiki khác, cũng dựa vào mô hình hợp tác cùng làm. Nhà sáng lập Jimmy Wales đang triển khai Wiktionary, một loại từ điển đa ngữ do nhiều nhà làm từ điển biên soạn. Những người thích các câu danh ngôn, lời hay ý đẹp đang cùng soạn Wikiquote bằng 30 thứ tiếng. Trong dự án Wikibook, bất kỳ ai cũng có thể tham gia soạn sách giáo khoa cho học sinh. Tổ chức Wikipedia Foundation cũng đã bắt đầu dịch vụ Wikinews, bằng cách tổng hợp đủ mọi nguồn tin tức trên khắp thế giới.


Thứ Năm, 21 tháng 6, 2007

Tan man DVD

TẢN MẠN DVD

Nguyễn Vạn Phú

Nói thật, người mê xem phim ở Việt Nam sướng hết chỗ nói. Trong khi dân nước Mỹ phải bỏ hàng chục đô la để mua một đĩa phim DVD, ở ta cứ ra chợ Huỳnh Thúc Kháng hay bất kỳ tiệm bán đĩa nào, tha hồ lựa phim, mỗi đĩa chỉ khoảng 15.000-18.000 đồng, phim mới phim cũ, phim bộ phim lẻ, kiểu nào cũng có. Chẳng lạ gì khi dân Tây hay Việt kiều cũng xúm vào mua cả chồng đĩa. Tuy nhiên, cái sướng đó ngày nay đã chấm dứt - mà cũng chẳng phải do các công ước bảo vệ bản quyền gì cả.

Đầu tiên, thị trường chỉ có đĩa DVD của Trung Quốc sao chép đĩa gốc. Dù đĩa không có các mục “Bonus Features” như hậu trường làm phim, phỏng vấn đạo diễn, diễn viên, đây chính là thời kỳ “sướng hết chỗ nói” nói ở trên. Chẳng mấy chốc, giới làm ăn nghiệm ra rằng phim càng mới, bán càng chạy ; thế là không cần đợi phát hành đĩa gốc để mua về sao chép lậu, giới đạo tặc phim ảnh vác nguyên camera kỹ thuật số vào rạp, quay lại hình ảnh chiếu trên màn hình, về chuyển thành phim DVD và bán ra cùng một lúc với phim được chiếu ở rạp tận bên Mỹ !

Mua đúng loại phim này về, tức không chịu được. Hình ảnh mờ mờ, phủ một lớp màu xanh nhợt nhạt, thỉnh thoảng lại thấy một cái đầu của khán giả trong rạp nhô lên. Âm thanh chát chúa pha lẫn tiếng cười, tiếng bình phẩm của người xem. Sau này kỹ thuật quay lén bằng camera ngày càng tinh vi, nhưng chất lượng vẫn tệ hại. Thế là lần lượt ra đời các loại đĩa “bản đẹp 98%”, “bản đẹp” và “bản chính thức”. Bản đẹp là phim tải từ trên mạng Internet, rồi được chuyển thành dạng DVD nên gọi là “đẹp” nhưng chỉ khá hơn bản camera đôi phần. Bản đẹp còn là dạng phim dành riêng để quảng cáo trước cho các nơi phát hành phim, hay để gửi cho giám khảo các cuộc thi, có in chình ình dòng chữ cảnh báo. Đĩa DVD thời “sướng hết chỗ nói” bây giờ được gọi là “bản chính thức”. Những người rành rẽ chọn phim bằng cách hỏi âm thanh mấy chấm ! Nếu hai chấm (tức stereo) đích thị là phim “dỏm”, còn năm chấm (Dolby 5.1) là phim “xịn”. Ngay cả phim tốt, chất lượng cũng sút giảm nhiều so với bản gốc vì đĩa gốc thường cài mã khóa để bảo vệ bản quyền. Giới sao chép phải dùng phần mềm trích hình ảnh ra rồi ghi lại. Chưa kể, để chứa vừa một đĩa DVD loại thường, họ bỏ nhiều mục và cố ý giảm độ phân giải.

Phụ đề phim cũng gây đau đầu không kém. Có phim tự dưng lấy hẳn phụ đề của một phim khác, hoàn toàn không ăn nhập đâu vào đâu ; có phim phụ đề được dịch từ tiếng Hoa ngược ra lại tiếng Anh nên đọc buồn cười không chịu được.

Muốn xem phim DVD loại tốt bây giờ chỉ còn cách mua loại đĩa DVD 9, tức đĩa hai lớp dung lượng đến 8,5 GB trong khi DVD bán ngoài chợ là DVD 5 chỉ chứa được tối đa 4,7 GB.

Nói chuyện DVD để thấy rằng tuân thủ vấn đề bảo vệ bản quyền là không dễ. Cho dù bây giờ có công ty chuyên nhập DVD bản gốc về bán, cũng ít ai sẵn sàng bỏ khoản tiền gấp mấy chục lần trước đây để mua phim có bản quyền. Mà thị trường nhỏ sẽ khó có chuyện DVD đại hạ giá như ở các nước khác.

Cách tốt nhất là tổ chức mô hình cho thuê DVD như nhiều nước. Giả thử có ai nảy ra ý tưởng kinh doanh, mua đĩa “xịn” rồi tổ chức cho thuê qua mạng, ắt có cơ hội thành công. Hiện đã có một số trang web ở Việt Nam chuyên cho thuê DVD qua mạng khá chuyên nghiệp như ezrentdvd.com hay thuedvd.com. Mô hình này như các loại cửa hàng cho thuê phim Blockbuster, người tham gia trả một khoản phí hàng tháng (từ 90.000 đồng), vào trang web chọn phim, sẽ có người đưa phim đến tận nhà, không hạn chế số ngày giữ phim, số lần mượn (càng xem nhanh càng mượn được nhiều)… Khổ nỗi những sự bực mình của việc mua phim DVD “dỏm” cũng sẽ xuất hiện nếu nơi cho thuê không chịu chọn lọc phim cho kỹ. Vì thế, ý tưởng cho thuê phim DVD có bản quyền đàng hoàng vẫn chờ người triển khai.


Thứ Hai, 18 tháng 6, 2007

Thieu nguoi lanh dao?

Thị trường nhân lực cấp cao
Điều chưa được nhắc đến
Nguyễn Vạn Phú
Khi nói đến thị trường nhân lực cấp cao ở Việt Nam, người ta thường đề cập đến các vấn đề như thiếu người giỏi dù mức lương chào mời rất cao, thói quen nhảy từ công ty này sang công ty khác của loại nhân lực này hay cách làm mới của nhiều công ty giữ chân người giỏi bằng cổ phiếu… Tuy nhiên, hầu như chưa ai chú ý đến sự khác biệt giữa nhân lực cấp cao trong vai trò quản lý và nhân lực cấp cao trong vai trò lãnh đạo dù đây là mấu chốt có thể giải quyết nạn thiếu hụt nhân sự ở nhiều công ty.

Đừng ngạc nhiên
Nhiều người bất mãn vì một hôm bỗng thấy đồng nghiệp thua sút mình trong nghề nghiệp lại được cất nhắc lên chức vụ cao hơn. Thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp người được đưa vào vị trí lãnh đạo doanh nghiệp chưa chắc đã có chuyên môn vững vàng như nhân viên bên dưới. Nhiều người khác chia sẻ nhận xét, tại sao anh chàng đó mà được làm sếp trong khi chỉ biết chỉ tay năm ngón; người giỏi hơn, nhiều kinh nghiệm hơn trong công ty không thiếu…
Trong nghệ thuật quản trị doanh nghiệp, người ta phân biệt rất rõ sự khác biệt giữa loại người lãnh đạo, người có chuyên môn và người quản lý ở bất kỳ cấp độ nào. Lấy ví dụ phòng kế toán, tài chính của một công ty lớn sẽ có một vài chuyên gia có bằng cấp cao, chuyên thực hiện những yêu cầu tính toán phức tạp khi làm dự toán một dự án nào đó. Họ có thể làm việc say mê, hết giờ vẫn chưa chịu về khi chưa tìm ra lời giải. Nhưng họ sinh ra không phải để làm lãnh đạo vì thiếu những đức tính cần thiết. Người quản lý tốt rất giỏi về khả năng tổ chức thực hiện công việc, bám theo các quy trình có sẵn và đốc thúc nhân viên theo các mục tiêu đã định. Họ hầu như có mặt khắp nơi, giải quyết ổn thỏa mọi trục trặc của quy trình, và biết tận dụng kiến thức chuyên môn của từng nhân viên để thúc đẩy công việc. Nhưng họ cũng chưa phải là nhà lãnh đạo.
Người lãnh đạo đúng nghĩa chính là một người “chỉ tay năm ngón”, nhân viên không tiếp xúc trực tiếp sẽ dễ có cảm giác ông này không làm gì cả. Bởi người lãnh đạo giỏi định hướng đi cho doanh nghiệp hay tổ chức và khơi gợi sự hứng thú của mọi người cùng đi trên con đường này. Người lãnh đạo tốt sẽ không chịu duy trì hiện trạng như người quản lý mà luôn luôn tìm cách phát triển; có tầm nhìn dài hạn chứ không bó hẹp vào các tình huống trước mắt như nhà quản lý. Nói tóm lại, người quản lý chú trọng vào hệ thống còn người lãnh đạo chú trọng vào con người. Ở đây cần lưu ý vai trò người lãnh đạo không hẳn là từ chức vụ doanh nghiệp phân công chính thức; người lãnh đạo có thể ở bất kỳ vị trí nào và có thể là cấp dưới của nhà quản lý. Bởi ngoài vai trò lãnh đạo đến từ chức vụ, còn có sự lãnh đạo (tức là sự dẫn dắt) đến từ nhiệm vụ, kiến thức, mối quan hệ hay cá tính.

Thị trường đang thiếu cái gì?
Vì thế khi nói đến thị trường nhân lực cấp cao, cần xác định chúng ta đang nói đến ai, trong vai trò như thế nào. Đúng là chúng ta đang thiếu đủ loại nhân lực cấp cao nhưng giới chuyên môn, sau quá trình đào tạo (trong hay ngoài nước hay tại chỗ), doanh nghiệp sẽ dễ dàng lấp các chỗ trống này. Ở vai trò quản lý cũng vậy, hàng loạt nhân viên trước đây từng làm cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài hay văn phòng đại diện các công ty đa quốc gia trở về làm quản lý cho các doanh nghiệp trong nước là một ví dụ. Nếu thiếu nữa, doanh nghiệp vẫn có thể tuyển dụng người nước ngoài vào các vị trí quản lý cấp cao cần thiết. Hiện nay, giới quản lý đang chịu khó học, từ các lớp MBA chính quy đến các khóa đào tạo ngắn hạn. Hàng loạt sinh viên ngành quản trị kinh doanh được đào tạo bài bản ở nước ngoài sẽ về tìm cơ hội làm việc trong nước vì dư địa cho họ thi thố tài năng ở Việt Nam lớn hơn nhiều so với ở các nước họ đang học tập.
Điều thị trường đang thiếu trầm trọng là các nhân sự cấp cao đóng vai trò lãnh đạo thật sự ở doanh nghiệp. Thị trường hiện đang nhầm lẫn nên vẫn thường xảy ra trường hợp một quản lý cấp cao ở một công ty nước ngoài về đầu quân cho doanh nghiệp trong nước và lầm tưởng mình sẽ lãnh đạo doanh nghiệp thành công. Họ thất bại vì ở họ thừa kỹ năng quản lý nhưng thiếu các đức tính cần thiết của một lãnh đạo. Và khi hệ thống họ sao chép từ nơi khác xảy ra các tình huống chưa lường trước, họ sẽ dễ dàng đổ lỗi cho các yếu tố khách quan hay đổ tội cho người khác.
Một nhầm lẫn khác nữa là chủ doanh nghiệp có thể tuyển đúng một người có khả năng lãnh đạo doanh nghiệp cho họ nhưng lại sử dụng họ như nhà quản lý bằng cách bắt ép họ điều hành theo một hệ thống cứng nhắc không có chỗ cho sự sáng tạo.
Để giải quyết nạn thiếu hụt nhân lực cấp cao, thiết nghĩ doanh nghiệp nên phân biệt rõ các vai trò nói trên, xác định xem mình đang thiếu loại gì và đã sử dụng đúng nhân lực có sẵn chưa. Xét cho cùng, phẩm chất lãnh đạo không thể chỉ hình thành qua đào tạo, không thể bỏ tiền ra thuê là có, và càng không thể trông chờ từ một môi trường không thuận lợi cho sự thách thức cái cũ để nảy sinh cái mới.

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2007

Nhat ky phong vien

Nhật ký phóng viên nhân Ngày Báo chí
Nguyễn Vạn Phú

1.
Mức độ cạnh tranh quyết liệt giữa các báo đã tạo nên một sự sôi động chưa từng thấy trong làng báo Việt Nam. Tuy nhiên, thông thường, khi một sự kiện nổ ra, hầu như tất cả các tin, bài đều đi theo cùng một hướng – đôi lúc khá phiến diện, nhiều chủ quan. Lúc đó, chỉ những tin bài vượt lên chiều hướng chung này để nhìn sự kiện dưới một góc độ khác biệt mới tạo ra dấu ấn mạnh trong lòng độc giả.
Nếu có ai dùng cụm từ “Viết báo bầy đàn”, ắt hẳn nhiều nhà báo sẽ cảm thấy phật lòng. Nhưng không khác lắm hiện tượng các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán nhìn nhau để cùng đổ xô mua hay bán cùng loại cổ phiếu, nhiều phóng viên cũng chịu ảnh hưởng của nhau khi xử lý tin bài về cùng một sự kiện.
Xin dẫn một số ví dụ gần đây nhất. Lúc nổ ra tin ngư dân cắt trộm đường dây cáp quang dưới biển, hầu như tất cả các báo đều bình về sự thiếu ý thức của người dân, phỏng vấn các quan chức về tác hại của việc phá hoại này hay dẫn lời của các công ty viễn thông về thiệt hại vật chất… Chỉ sau đó khá lâu, báo Thanh Niên mới có bài với phát hiện động trời: Chính UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã có công văn cho phép bộ đội biên phòng phối hợp với tư nhân khai thác cáp phế liệu tồn tại từ trước năm 1975 (có thể có báo khác đưa tin này trước mà người viết không biết) và sau đó ngư dân tham lợi làm theo, làm càn. Chi tiết này đã làm thay đổi toàn bộ cục diện, dẫn đến những bình luận chính xác hơn về nguyên nhân sự việc, thậm chí giúp cơ quan chức năng có các biện pháp thích hợp hơn để giải quyết sự việc.
Với vụ bán đấu giá cổ phiếu Đạm Phú Mỹ, trong một thời gian dài, khi nhắc đến kết quả, hầu như bài báo nào cũng tỏ ra ngạc nhiên vì sao giá trúng thầu sao thấp hơn dự kiến, bài nào cũng có cụm từ “bất ngờ lớn”! Hóa ra, nhà đầu tư bỏ giá không bị bất ngờ như nhà báo vì họ đọc kỹ bản cáo bạch và biết rõ tương lai nhà máy sản xuất phân bón này không sáng sủa cho lắm vì giá mua khí đốt đầu vào sẽ không còn được bù lỗ, phải mua với giá cao hơn. Các khoản lãi trước khi cổ phần hóa là nhờ được bao cấp giá mua khí đốt nên mới có chuyện Bộ Tài chính đòi điều tiết bớt khoản lãi những năm đó.
Điều đáng nói là sự cạnh tranh lành mạnh về đưa tin “nóng”, tin “độc” đã giúp kéo ngắn thời gian giữa loạt bài cùng khuôn mẫu và thời điểm xuất hiện các bài hay – loại bài mà các báo phải đọc kỹ để “cạo” cho phóng viên viết khuôn mẫu một trận. Vụ một em học sinh đột nhập và phá trang web của Bộ Giáo dục được một vài báo ca ngợi chưa lâu thì báo khác đã đưa ra những chứng cớ “không chối cãi vào đâu được” để phê phán hiện tượng phá phách này. Vụ Microsoft vào ký hợp đồng bán bản quyền phần mềm trọn gói cho Chính phủ được nhiều báo “tán lên tận mây xanh” lại được phân tích bình luận một cách tỉnh táo ở báo khác với những góc nhìn mới về phần mềm nguồn mở, về giá cả và kinh nghiệm của các nước khác trong khu vực… Còn nhớ lúc thị trường chứng khoán lên cơn sốt, giá cổ phiếu tăng vùn vụt, rất nhiều bài báo nói Nhà nước nên bán bớt cổ phần đang nắm giữ ở các công ty đã cổ phần hóa. Nghe qua rất hợp lý nhưng vẫn có những bài đưa ra ý kiến ngược lại, nêu lên vai trò và tầm nhìn dài hạn của cổ đông nhà nước đối với thị trường.
Chỉ đáng tiếc một vài sự vụ vẫn đang còn dừng ở mức báo nào cũng giống nhau, thiếu hẳn cái nhìn tỉnh táo và sâu hơn. Ví dụ, chúng ta còn nhớ siêu dự án 30 tỷ USD của “tập đoàn” Eminence được báo chí trong nước tập trung chứng minh một cách thuyết phục nó thiếu khả thi như thế nào. Nhiều báo đã điều tra một cách rất công phu năng lực tài chính thực sự của Eminence; các báo khác lấy được phát biểu dứt khoát của các quan chức… Nhưng tất cả mới chỉ dừng ở mức độ chứng minh đây là dự án “bánh vẽ”. Người đọc, trong khi đó, còn đòi hỏi chúng ta nhiều hơn nữa – chẳng hạn vì sao Eminence vẽ ra dự án này; phải chăng đang có xu hướng di dời các nhà máy sản xuất gây ô nhiễm ở nước khác sang Việt Nam; phải chăng Eminence chỉ là người tiền trạm cho xu hướng đầu tư đáng cảnh báo hơn bội lần này; nếu đúng thì liệu Việt Nam đã có các biện pháp nào để ngăn ngừa; Eminence dùng con số khổng lồ gây nghi ngờ ngay từ đầu là 30 tỷ USD, giả dụ có dự án khác chỉ 1 tỷ USD và trong bối cảnh các địa phương đang tranh nhau thu hút đầu tư về địa phương mình thì làm sao phát hiện nó gây tác hại đến môi trường…
Cuộc họp báo của World Bank về đánh giá các dự án ODA tại Việt Nam trong đó có các dự án do PMU 18 quản lý để lại nhiều câu hỏi hơn là giải đáp chuyện có hay không có bằng chứng về sự tham nhũng của cán bộ PMU 18. Người đọc đòi hỏi phóng viên phải truy vấn cho được Bộ Giao thông Vận tải, là cơ quan chủ trì cuộc họp báo, liệu kết luận này của World Bank sẽ tác động như thế nào đến vụ án PMU 18. Lẽ ra, trước khi dự họp báo, phóng viên phải đọc lại tất cả các bài báo điều tra công phu trước đó về các bằng chứng sai sót của PMU 18 liên quan đến các dự án của World Bank cho vay để chất vấn lại đại diện của World Bank tại cuộc họp…
Nền kinh tế nước ta hiện đang trải qua những chuyển biến sâu sắc sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Những chuyển biến này phần lớn thể hiện qua các chi tiết mới nhìn khó đặt chúng vào một tổng thể để hiểu được xu hướng chung của nền kinh tế. Vì thế, trong thời gian tới báo chí sẽ còn sôi động hơn nữa và người viết báo sẽ càng thấy khó hơn nữa khi đi tìm cho mình một góc nhìn độc đáo, mới lạ và sâu sắc để bài viết của mình nổi lên trong hàng loạt bài báo về cùng một đề tài. Nhưng chính trong môi trường này, những phóng viên nào có lòng yêu nghề, say mê với cái mới, tò mò về cái lạ, sẽ có nhiều cơ hội thi thố tài năng của mình.
* * *
2.
Chưa thấy làng báo nào thoải mái đăng bài của nhau trên các website thông tin điện tử như ở Việt Nam. Một báo vừa tổ chức được một bài báo xuất sắc, thực hiện công phu, ngay lập tức hàng loạt website khác cứ thế “cắt” và “dán” nguyên văn vào trang web của mình. Trước đây tình hình còn tệ hại hơn khi nhiều tờ báo điện tử thoải mái biên tập, cắt xén, sửa đổi, rút tít cho bài báo vừa “mượn tạm” của báo khác. Đã từng có nhiều lời than phiền về cách làm ẩu tả của các tờ báo điện tử này khi cố ý rút tít giật gân, biên tập sai hay thêm vào nhiều đoạn không có trong bản gốc. Hiện nay chuyện tùy tiện sửa chữa như vậy đã giảm hẳn; đa phần các trang web đều để nguồn ở cuối bài mình “mượn tạm”. Tuy nhiên, không thể nào chấp nhận việc sử dụng công sức người khác để làm lợi cho mình như vậy; không thể nào không tìm cách chấn chỉnh chuyện bản quyền báo chí ở nước ta.
Thiết nghĩ giải quyết vấn đề này không khó. Cách làm phổ biến nhất ở hầu như các nước người viết có tìm hiểu là trang web thông tin điện tử có thể trích bài của nguồn khác nhưng chỉ trích tiêu đề và vài câu dẫn nhập. Nếu người đọc cần đọc vào chi tiết, họ nhấp chuột vào tiêu đề và sẽ được dẫn đến trang web nguyên thủy có đăng bài này. Hai trong các website làm tốt theo cách này là
www.baomoi.comwww.thegioitin.com.
Làm theo cách này, trang web tổng hợp tin tức vẫn hưởng được nhiều điều lợi. Người đọc, nếu tin tưởng vào sự chọn lựa thông tin, sắp xếp tin tức và tổng hợp được nhiều nguồn khác nhau sẽ thu hút được khách vào xem. Dù họ có bấm để sang trang gốc vẫn sẽ quay về trang tổng hợp để đọc các tin khác ở nguồn khác mà vì thiếu thời gian, họ không thể lần lượt vào hết. Lúc đó lo gì trang web tổng hợp không tìm được quảng cáo trực tuyến cho mình. Ở nước khác, làm theo cách này như trang tin tức của Google (news.google.com) cũng đang bị các hãng tin và các tờ báo kiện tụng nhưng dù sao cũng đỡ hơn cách bê nguyên đồ đạc của nhà khác về nhà mình để trưng bày.
Xin đừng viện dẫn luật lệ về bản quyền để cho rằng Việt Nam chưa có quy định trong lãnh vực này. Các tờ báo lớn, cả báo in lẫn báo mạng, nên ngồi lại với nhau để đạt được thỏa thuận nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh thật sự. Lúc đó phóng viên mới có động lực săn tin độc quyền mà không sợ đăng lên một phút sau đã bị hớt tay trên.

* * *
3.
Các cuộc thảo luận với những nhận định khá bi quan về tương lai báo in ở nước ngoài liệu có đúng với báo chí Việt Nam? Ở các nước, báo in đang than trời vì số lượng phát hành giảm, quảng cáo sa sút vì sự xuất hiện của báo mạng và loại báo phát không. Có lẽ tình hình này chưa xảy ra ở Việt Nam vì trước mắt vẫn thấy nhiều tờ báo xin tăng kỳ, tăng trang, ra phụ trương, ra ấn bản đặc biệt, nhiều tờ báo mới ra đời.
Tuy nhiên, người làm báo in không thể
lẩn tránh những lợi thế to lớn của báo mạng: đưa tin ngay tức thì trong khi báo ngày phải đợi đến mai, đưa tin dài bao nhiêu cũng được, kèm bao nhiêu ảnh cũng được trong khi báo in bị hạn chế bởi khuôn khổ tờ báo. Báo mạng dễ dàng nhận ngay phản hồi của độc giả, tạo ra sự tương tác mà báo in khó thực hiện. Báo mạng giúp độc giả theo dõi dòng tin bằng các công cụ mà báo in có nằm mơ cũng không làm nổi như làm đường dẫn đến các thông tin nền, cụm các tin bài liên quan, tin kèm âm thanh, phim ảnh…
Vì thế, dù tình hình không như ở các nước, báo in ở Việt Nam cũng đang phải tự đổi mới chính mình trước sự cạnh tranh của thông tin trên Internet. Báo in sẽ quay trở lại loại tin bài truyền thống, tức loại tin sâu, có phân tích, có bình luận, có giải thích. Nếu độc giả báo mạng được thỏa mãn ngay bằng tin thô thì độc giả báo in đòi hỏi tin bài phải cung cấp cho họ những chi tiết đắt giá, những con người đằng sau tin, phải có phóng sự, điều tra, tổng hợp.
Quan trọng hơn là xu hướng kết hợp báo in với báo mạng để phát huy lợi thế của cả hai. Khi đó, tờ báo sẽ khai thác tin nhanh để đưa ngay lên mạng và viết sâu hơn để đăng trên báo in. Tờ báo nào không làm được điều này chắc sẽ chịu nhiều thua thiệt. Cũng giống như cơ cấu thu nhập của các tờ báo nước ngoài, doanh thu quảng cáo của đa phần báo chí nước ta chiếm tỷ trọng lớn hơn doanh thu phát hành. Nếu thiếu vắng hẳn sự hiện diện trên Internet, tức là không tạo được ấn tượng với nhà quảng cáo, doanh thu của tờ báo in thuần túy sẽ sụt giảm so với tờ báo in có thêm ấn bản online.
Vì thế xu hướng sắp tới đòi hỏi người phóng viên phải biết kèm theo bài viết của mình những hình ảnh, âm thanh, thậm chí các đoạn phim ngắn để sử dụng trên báo in và báo mạng. Người phóng viên phải biết viết ngắn, viết nhanh để đưa lên mạng càng nhanh càng tốt, đồng thời phải biết viết sâu, viết ở góc độ riêng để đăng trên báo in. Và chính vì xu hướng này, chuyện yêu cầu chấm dứt thói quen “mượn tạm” bài của báo khác để thu hút người xem vào trang web của mình nói ở trên càng bức thiết hơn bao giờ hết.


Bài đăng phổ biến