August Rush – cổ tích hiện đại
Có thể rất nhiều người sẽ nhận xét August Rush là một phim rất “sến” vì dựa theo một cốt truyện lâm li theo kiểu “Mùa thu lá bay” của Quỳnh Dao. Nhưng vượt qua sự phi lý của nội dung, cái tầm thường của những môtif quen thuộc, diễn xuất của cậu bé vai chính (Freddie Highmore đóng) và âm nhạc tuyệt vời trong phim có thể làm các cô chảy nước mắt và các chàng trai phải ôm chiếc đàn guitar đã bỏ quên trong góc phòng, mơ màng về một thời mọi chuyện tưởng đơn giản như câu chuyện cổ tích.
Evan Taylor là một cậu bé mồ côi sống “giữa” âm nhạc, cậu nghe tiếng nhạc từ bất kỳ âm thanh nào quanh cậu và cậu tin âm nhạc sẽ giúp cậu tìm lại bố mẹ. Hơn 11 năm trước Louis (do Jonathan Rhys Meyers đóng), một ca sĩ nhạc rock và Lyla (do Keri Russell thủ vai), một nghệ sĩ cello tình cờ gặp nhau và có cuộc tình một đêm, sau đó hai người phải chia tay vì người bố đầy tham vọng cho tương lai cô con gái tài năng của mình. Đúng như môtip thường thấy gần chín tháng sau, Lyla đang mang thai bị tai nạn xe hơi, phải sinh non và ông bố đem Evan đi cho, nói dối con đứa bé đã chết. Louis, Lyla mỗi người một phương, đã bỏ âm nhạc nhưng vẫn không thể có cuộc sống bình thường như thể họ phải đi tìm gặp nhau và tìm lại đứa con chưa biết mặt của họ.
Lúc này Evan bỏ trại mồ côi lên New York, lại rơi vào tay một gã chuyên lợi dụng tài năng của bọn trẻ đường phố để kiếm sống. Câu chuyện cổ tích bắt đầu khi Evan sau mấy giờ học, đã đàn guitar thành thạo, soạn nhạc dễ dàng như thở và sau sáu tháng học tại nhạc viện đã sáng tác một bản giao hưởng đồ sộ mà cậu tin sẽ giúp cậu tìm ra bố mẹ mình. Cậu bé trải qua nhiều cuộc phiêu lưu, nhiều biến cố nhưng, đúng như nhiều người xem phim có thể đoán ngay từ đầu – sẽ có một kết thúc có hậu.
Câu chuyện chỉ có thế và đầy tình tiết phi lý như thế nhưng người xem hầu như không thể dứt mắt, ngoảnh tai trước màn hình. Họ như bị điện giật khi lần đầu tiên cậu bé Evan tiếp xúc với cây đàn guitar, không ôm đàn như bình thường mà để nó nằm dài dưới đất, không gảy đàn như mọi người mà “vỗ” dây đàn tạo ra tiếng nhạc làm say đắm lòng người.
Trong khi hàng loạt phim khác với những tình tiết phi lý theo kiểu rượt đuổi bằng xe bằng máy bay hay chạy tuốt vào lòng quả đất thì không ai nói gì, tại sao một phim như August Rush lại bị nhiều nhà điểm phim ở Mỹ chê là “một Oliver Twist” sướt mướt hiện đại. Để xem phim, tốt nhất bạn thả lỏng người ra, và cùng cậu bé Evan được đặt nghệ danh là August Rush lắng nghe tiếng nhạc trong dòng xe hối hả, trong tiếng tàu điện rầm rập và cả trong tiếng phong linh…, nghe tiếng nhạc cổ điển hòa quyện tài tình vào dòng nhạc rock cuồng nhiệt. Thế giới từng có thiên tài âm nhạc Mozart, tại sao không thể có một thiên tài như thế xuất hiện trong phim để nuôi dưỡng lòng yêu âm nhạc trong con người, để tin rằng thế giới “ở hiền gặp lành” vẫn tồn tại. Cảm động nhất là trường đoạn Evan gặp cha nhưng cả hai không nhận ra nhau, chỉ cùng nhau song tấu một bài guitar ngẫu hứng tuyệt vời.
Mặc dù nhìn chung August Rush bị giới phê bình phim ở Mỹ chê nhưng theo thông tin từ nhiều diễn đàn điện ảnh, khán giả trong rạp đã đồng loạt đứng lên vỗ tay khi phim kết thúc – một loại lời bình đáng giá và thật hơn nhiều.
Vân Cầm
Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2008
Thứ Năm, 20 tháng 3, 2008
Doc sach
Lo chuyện… bao đồng?
Nguyễn Vạn Phú
Nhân Hội sách lần thứ 5 vừa được tổ chức, vấn đề người Việt có mê đọc sách không lại được đưa ra thảo luận. Thú thật, mỗi lần nghe bàn đến chuyện này, người viết có cảm giác như thể ai đó hỏi: nhân loại có còn mê ăn không?
Thử nhớ lại các bà mẹ Việt Nam cách đây chừng mấy chục năm, rất nhiều bà không biết đọc, chưa từng được cầm cuốn sách nào nhưng cũng rất nhiều bà thuộc lòng truyện Kiều và vô vàn câu thơ, câu vè, lại sử dụng chúng rất nhuần nhuyễn trong cuộc sống, trong nuôi dạy con cái. Ai dám bảo các bà mẹ chúng ta không đọc sách, hiểu theo một nghĩa đen thô thiển.
Lịch sử văn học dân gian cũng tràn đầy những dẫn chứng cho thấy “đọc sách” không bao giờ được hiểu ở một góc cạnh bó hẹp như đang được hiểu. “Sách” dù không tồn tại trên giấy mực, vẫn được “in” ra và lưu truyền, mỗi năm có một “ấn bản” mới, hay hơn “ấn bản” trước, để cuối cùng nhân loại có những tuyệt tác còn lại đến ngày nay.
Vì thế, khi bàn đến chuyện người Việt có mê đọc sách không, thiết tưởng phải định nghĩa lại hai từ cơ bản là “đọc” và “sách”. Cuốn Mật mã Da Vinci có sức lôi cuốn đến nỗi, không chờ được bản dịch, không thể gởi mua từ nước ngoài về, tôi đã tải từ trên mạng Internet, bỏ vào chiếc máy điện thoại sử dụng hệ điều hành Windows Mobile, đọc một cách say mê. Không sờ vào giấy, chẳng thấy chút mực nào, tôi vẫn đang đọc sách đấy chứ. Và có lẽ nhiều người bảo, nhờ thế mà tránh được “thảm họa dịch thuật” từng được bàn tán sôi nổi một thời gian.
Ví dụ này quá rõ nên có lẽ được nhiều người đồng tình. Nhưng thử giả định tiếp, một em “đọc” Tây Du Ký qua bộ phim truyền hình nhiều tập cùng tên, một bác “đọc” những phóng sự về rừng già Amazon qua các bộ phim tài liệu, một cô “đọc” và tìm hiểu cảm giác cô đơn của giới trẻ qua những bản nhạc cô yêu thích – thì rõ ràng họ vẫn đang “đọc sách” đó thôi.
Nếu ngày trước, kiến thức nhân loại chỉ có một con đường phổ biến là sách in thì ngày nay dòng kiến thức đó, đã tăng bội lần, được truyền tải bằng nhiều phương tiện, dưới nhiều hình thức. Nói cho cùng, nhu cầu “đọc” để hiểu cuộc sống chung quanh mình, để chia sẻ với đồng loại là nhu cầu không bao giờ mất đi cho nên con người không bao giờ hết mê “đọc sách”. Vấn đề là họ tìm cách thỏa mãn nhu cầu đó bằng cách nào và con đường nào; và đó là chọn lựa tối ưu của mỗi cá nhân, không có gì phải lo lắng hay băn khoăn cho họ cả.
Lấy ví dụ, trước khi Việt Nam có thị trường chứng khoán, dù thị trường có cuốn sách được viết hay đến mấy, chắc cũng ít người tìm đọc. Đến khi, người người chơi chứng khoán, nhà nhà lên sàn, không ai bảo ai, các tiệm sách bỗng tràn ngập loại sách này. Hiện nay người Việt ít mua sách về đọc, đơn giản là thị trường sách chưa thỏa mãn nhu cầu đọc của họ. Không ai chịu bị lừa nhiều lần, bỏ tiền mua các cuốn sách được làm cẩu thả, sai kiến thức, sao chép… Ngược lại, sách thuộc loại khó đọc như các cuốn sách kinh điển về triết học làm cẩn thận, biên soạn công phu vẫn thuộc loại sách bán chạy trong những năm gần đây.
Và trong thời đại thông tin tràn ngập hiện nay, không ai đọc theo kiểu ôm khư khư các cuốn sách gối đầu giường như kiểu ông cha ta đem Tứ thư Ngũ kinh ra tụng thuộc lòng. Nhu cầu của tôi là tìm hiểu diễn biến của toàn cầu hóa, tôi sẽ dùng Internet tìm đúng đến tài liệu cầu đọc, thậm chí vừa đọc vừa trao đổi với người khác nếu đó là mạng Internet 2.0. Nếu tôi muốn làm quen với hệ điều hành Palm chẳng hạn, tôi sẽ vào các diễn đàn chuyên về chủ đề này và ở đó, tôi sẽ đọc được hàng tấn thông tin, còn bổ ích và thiết thực gấp nhiều lần so với một cuốn sách về chủ đề tương tự.
Xin mở rộng ra một chút về các đề tài “lớn lao” hơn. Các bộ phim tầm phào như “300” lại hé mở cho thấy một góc tâm lý phương Tây về Hồi giáo, về cuộc chiến tại Iraq nhiều hơn cả chục cuốn sách dày cộp. Các blog cho thấy nhiều điều không sách nào phản ánh hết được.
Như vậy, vấn đề không phải là người Việt có mê đọc sách không mà ở chỗ làm sao có sách hay để “mê đọc” và làm sao thế hệ trẻ được giáo dục ở nhà trường cách thẩm định đúng đắn cái hay cái dở của sách, một cách tự do chứ không bị ràng buộc bởi những định kiến hay khuôn khổ như kiểu “đọc sách” phải là “đọc sách”. Không có công cụ đó, chúng sẽ lớn lên và sẽ phải mất nhiều thì giờ hơn để tìm hiểu thế giới quanh chúng, phải mày mò qua các bộ phim truyền hình ướt át nhiều tập hay sau hàng giờ ngồi chat trước máy tính.
Nguyễn Vạn Phú
Nhân Hội sách lần thứ 5 vừa được tổ chức, vấn đề người Việt có mê đọc sách không lại được đưa ra thảo luận. Thú thật, mỗi lần nghe bàn đến chuyện này, người viết có cảm giác như thể ai đó hỏi: nhân loại có còn mê ăn không?
Thử nhớ lại các bà mẹ Việt Nam cách đây chừng mấy chục năm, rất nhiều bà không biết đọc, chưa từng được cầm cuốn sách nào nhưng cũng rất nhiều bà thuộc lòng truyện Kiều và vô vàn câu thơ, câu vè, lại sử dụng chúng rất nhuần nhuyễn trong cuộc sống, trong nuôi dạy con cái. Ai dám bảo các bà mẹ chúng ta không đọc sách, hiểu theo một nghĩa đen thô thiển.
Lịch sử văn học dân gian cũng tràn đầy những dẫn chứng cho thấy “đọc sách” không bao giờ được hiểu ở một góc cạnh bó hẹp như đang được hiểu. “Sách” dù không tồn tại trên giấy mực, vẫn được “in” ra và lưu truyền, mỗi năm có một “ấn bản” mới, hay hơn “ấn bản” trước, để cuối cùng nhân loại có những tuyệt tác còn lại đến ngày nay.
Vì thế, khi bàn đến chuyện người Việt có mê đọc sách không, thiết tưởng phải định nghĩa lại hai từ cơ bản là “đọc” và “sách”. Cuốn Mật mã Da Vinci có sức lôi cuốn đến nỗi, không chờ được bản dịch, không thể gởi mua từ nước ngoài về, tôi đã tải từ trên mạng Internet, bỏ vào chiếc máy điện thoại sử dụng hệ điều hành Windows Mobile, đọc một cách say mê. Không sờ vào giấy, chẳng thấy chút mực nào, tôi vẫn đang đọc sách đấy chứ. Và có lẽ nhiều người bảo, nhờ thế mà tránh được “thảm họa dịch thuật” từng được bàn tán sôi nổi một thời gian.
Ví dụ này quá rõ nên có lẽ được nhiều người đồng tình. Nhưng thử giả định tiếp, một em “đọc” Tây Du Ký qua bộ phim truyền hình nhiều tập cùng tên, một bác “đọc” những phóng sự về rừng già Amazon qua các bộ phim tài liệu, một cô “đọc” và tìm hiểu cảm giác cô đơn của giới trẻ qua những bản nhạc cô yêu thích – thì rõ ràng họ vẫn đang “đọc sách” đó thôi.
Nếu ngày trước, kiến thức nhân loại chỉ có một con đường phổ biến là sách in thì ngày nay dòng kiến thức đó, đã tăng bội lần, được truyền tải bằng nhiều phương tiện, dưới nhiều hình thức. Nói cho cùng, nhu cầu “đọc” để hiểu cuộc sống chung quanh mình, để chia sẻ với đồng loại là nhu cầu không bao giờ mất đi cho nên con người không bao giờ hết mê “đọc sách”. Vấn đề là họ tìm cách thỏa mãn nhu cầu đó bằng cách nào và con đường nào; và đó là chọn lựa tối ưu của mỗi cá nhân, không có gì phải lo lắng hay băn khoăn cho họ cả.
Lấy ví dụ, trước khi Việt Nam có thị trường chứng khoán, dù thị trường có cuốn sách được viết hay đến mấy, chắc cũng ít người tìm đọc. Đến khi, người người chơi chứng khoán, nhà nhà lên sàn, không ai bảo ai, các tiệm sách bỗng tràn ngập loại sách này. Hiện nay người Việt ít mua sách về đọc, đơn giản là thị trường sách chưa thỏa mãn nhu cầu đọc của họ. Không ai chịu bị lừa nhiều lần, bỏ tiền mua các cuốn sách được làm cẩu thả, sai kiến thức, sao chép… Ngược lại, sách thuộc loại khó đọc như các cuốn sách kinh điển về triết học làm cẩn thận, biên soạn công phu vẫn thuộc loại sách bán chạy trong những năm gần đây.
Và trong thời đại thông tin tràn ngập hiện nay, không ai đọc theo kiểu ôm khư khư các cuốn sách gối đầu giường như kiểu ông cha ta đem Tứ thư Ngũ kinh ra tụng thuộc lòng. Nhu cầu của tôi là tìm hiểu diễn biến của toàn cầu hóa, tôi sẽ dùng Internet tìm đúng đến tài liệu cầu đọc, thậm chí vừa đọc vừa trao đổi với người khác nếu đó là mạng Internet 2.0. Nếu tôi muốn làm quen với hệ điều hành Palm chẳng hạn, tôi sẽ vào các diễn đàn chuyên về chủ đề này và ở đó, tôi sẽ đọc được hàng tấn thông tin, còn bổ ích và thiết thực gấp nhiều lần so với một cuốn sách về chủ đề tương tự.
Xin mở rộng ra một chút về các đề tài “lớn lao” hơn. Các bộ phim tầm phào như “300” lại hé mở cho thấy một góc tâm lý phương Tây về Hồi giáo, về cuộc chiến tại Iraq nhiều hơn cả chục cuốn sách dày cộp. Các blog cho thấy nhiều điều không sách nào phản ánh hết được.
Như vậy, vấn đề không phải là người Việt có mê đọc sách không mà ở chỗ làm sao có sách hay để “mê đọc” và làm sao thế hệ trẻ được giáo dục ở nhà trường cách thẩm định đúng đắn cái hay cái dở của sách, một cách tự do chứ không bị ràng buộc bởi những định kiến hay khuôn khổ như kiểu “đọc sách” phải là “đọc sách”. Không có công cụ đó, chúng sẽ lớn lên và sẽ phải mất nhiều thì giờ hơn để tìm hiểu thế giới quanh chúng, phải mày mò qua các bộ phim truyền hình ướt át nhiều tập hay sau hàng giờ ngồi chat trước máy tính.
Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2008
Diem phim
In the Valley of Elah - Một góc nhìn phản chiến
Vân Cầm
Gọi là phim phản chiến nhưng “In the Valley of Elah” bắt đầu như một phim hình sự. Viên trung sĩ già đã nghỉ hưu Hank Deerfield (Tommy Lee Jones đóng) một hôm bỗng nhận tin báo con ông đã từ chiến trường Iraq trở về nhưng lại mất tích ngay trên đất Mỹ. Với kinh nghiệm làm cảnh sát quân sự trong nhiều năm, Deerfield lái xe đường dài đến khu căn cứ nơi con ông đóng quân để tìm con. Phim tiếp tục như một cuộc điều tra tội phạm, với những đầu mối buôn bán ma túy, băng đảng địa phương… Xen kẽ là những đoạn phim ngắn về những ngày con ông đóng quân ở Iraq quay bằng máy điện thoại di động mờ mờ ảo ảo do Deerfield tìm được trong đống đồ đạc con ông để lại. Cảnh sát địa phương cuối cùng tìm ra xác con ông, bị cắt thành nhiều mảnh, nghi ngờ lớn nhất cũng là băng đảng Mexico buôn lậu ma túy mà con ông có khả năng dính líu. Kết cục bất ngờ: con ông bị nhóm đồng đội sát hại vì một lý do không đâu vào đâu; tất cả nhóm lính trong trung đội này đã trở thành con người khác, hoang mang, hung dữ, điên rồ, lạc hướng sau những ngày tháng bị biến thành những cổ máy sát nhân ở Iraq.
Đạo diễn Paul Haggis, người từng đoạt giải Oscar phim hay nhất năm 2005 với bộ phim “Crash” – một bức tranh phức tạp về nạn phân biệt chủng tộc ở Mỹ - nay quay sang đề tài phản chiến. Phim dựa trên hình thức điều tra hình sự, không chỉ để thu hút người xem mà còn là sự điều tra, tự vấn về cuộc chiến Iraq nơi những người lính Mỹ trẻ đánh mất sự ngây thơ của họ qua góc nhìn của người cha từng theo nghiệp lính suốt đời. Các đoạn phim quay bằng máy điện thoại di động bị hỏng, được một tay rành máy móc phục hồi, đã hé mở cho thấy nỗi kinh hoàng của chiến tranh khi lính Mỹ tra tấn tù nhân như một trò đùa, nhấn ga xe tải cán chết em bé vì sợ dừng lại sẽ bị phục kích… Deerfield bị ám ảnh bởi cú điện thoại của con ông khi còn ở Iraq, cầu cứu ông, mong tìm nơi ông sự giải thích cho sự điên rồ của chính mình và đồng đội. Nhưng tất cả chỉ là những tiếng vọng, những hình ảnh chập chờn, như thể đạo diễn muốn tránh nói trực tiếp đến cuộc chiến hay muốn tạo ấn tượng hỗn loạn, mơ hồ như cách nhiều người Mỹ đang nghĩ về cuộc chiến Iraq hiện nay.
Tommy Lee Jones, được đề cử giải Oscar cho nam diễn viên xuất sắc trong bộ phim này, đã đóng trọn vai trò một người cha, một người cựu binh, lần mò theo các dấu vết để tìm con. Người xem theo từng bước chân của ông, không phải để khám phá một vụ án hình sự, mà dấn sâu vào tâm hồn bị hủy hoại của người con, về bi kịch con người ở Iraq. Những nếp nhăn trên khuôn mặt ông dường như ngày càng sâu hơn khi ông dần dà phải chấp nhận thực tế: cuộc chiến ở Iraq đã biến con ông cũng như đồng đội anh ta thành những con người khác, nơi thú tính lấn lướt lý trí. Góc nhìn của một người cựu binh, luôn ủng hộ quân đội Mỹ, càng làm sự thức tỉnh này đau đớn hơn cho ông và cho người xem. Tommy Lee Jones hầu như không dùng thừa lời nói nào trong suốt phim, ngay cả với bà vợ đang chờ tin ở nhà nhưng nỗi đau như chảy ra từ nét nhìn sâu thẳm của ông.
Xen vào phim là một dòng chảy khác, về nữ cảnh sát Emily Sanders (Charlize Theron đóng), bị các đồng nghiệp nam quấy rối, bị ám ảnh bởi một vụ án bạo hành gia đình gây chết người mà lẽ ra cô đã có thể can thiệp. Với sự giúp đỡ của Sanders, Deerfield đã vượt qua sự thờ ơ của cảnh sát địa phương và nỗ lực che giấu sự thật của bên quân đội để tìm ra sự thật về số phận con ông.
Tựa phim có lẽ không phù hợp cho lắm vì Thung lũng Elah là nơi diễn ra cuộc đối đầu không cân sức giữa David và Goliath trong kinh Cựu Ước. Ở đây không có ai là chú bé, không có ai là gã khổng lồ; chỉ có những kẻ vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của một cuộc chiến phi lý. In the Valley of Elah dựa vào câu chuyện có thật cũng là một lính Mỹ trở về từ Iraq và bị đâm chết cách đây mấy năm. Đạo diễn kiêm tác giả kịch bản Haggis đã đổi địa danh, tên tuổi và thêm những chi tiết có thật ông khai thác từ những cựu binh khác để dựng phim này. Haggis cũng là tác giả hay đồng tác giả những kịch bản phim nổi tiếng khác như Million Dollar Baby, Letters from Iwo Jima…
Dòng phim về cuộc chiến Iraq không thành công về mặt doanh thu. Mặc dù được đánh giá cao bởi những nhà phê bình phim ở Mỹ, In the Valley of Elah chỉ thu được 6,7 triệu đô-la, có lẽ vì phim đi ngược lối kết phim có hậu của Hollywood, cũng không phải là loại phim vừa xem vừa nhai bắp rang. Bộ phim “Rendition” cũng chỉ thu về 9,7 triệu đô-la và “Lambs for Lions” cũng thất bại trong phòng vé. Ngay cả phim “Kingdom” chỉ thu về 47 triệu đô-la trong khi chi phí lên đến 80 triệu đô-la. Dù sao, góc nhìn gián tiếp của phim lại thuyết phục hơn, buộc người xem suy nghĩ nhiều hơn so với những phim tương tự trực tiếp khai thác tâm lý suy sụp của cựu binh Mỹ khi trở về cuộc sống bình thường.
Vân Cầm
Gọi là phim phản chiến nhưng “In the Valley of Elah” bắt đầu như một phim hình sự. Viên trung sĩ già đã nghỉ hưu Hank Deerfield (Tommy Lee Jones đóng) một hôm bỗng nhận tin báo con ông đã từ chiến trường Iraq trở về nhưng lại mất tích ngay trên đất Mỹ. Với kinh nghiệm làm cảnh sát quân sự trong nhiều năm, Deerfield lái xe đường dài đến khu căn cứ nơi con ông đóng quân để tìm con. Phim tiếp tục như một cuộc điều tra tội phạm, với những đầu mối buôn bán ma túy, băng đảng địa phương… Xen kẽ là những đoạn phim ngắn về những ngày con ông đóng quân ở Iraq quay bằng máy điện thoại di động mờ mờ ảo ảo do Deerfield tìm được trong đống đồ đạc con ông để lại. Cảnh sát địa phương cuối cùng tìm ra xác con ông, bị cắt thành nhiều mảnh, nghi ngờ lớn nhất cũng là băng đảng Mexico buôn lậu ma túy mà con ông có khả năng dính líu. Kết cục bất ngờ: con ông bị nhóm đồng đội sát hại vì một lý do không đâu vào đâu; tất cả nhóm lính trong trung đội này đã trở thành con người khác, hoang mang, hung dữ, điên rồ, lạc hướng sau những ngày tháng bị biến thành những cổ máy sát nhân ở Iraq.
Đạo diễn Paul Haggis, người từng đoạt giải Oscar phim hay nhất năm 2005 với bộ phim “Crash” – một bức tranh phức tạp về nạn phân biệt chủng tộc ở Mỹ - nay quay sang đề tài phản chiến. Phim dựa trên hình thức điều tra hình sự, không chỉ để thu hút người xem mà còn là sự điều tra, tự vấn về cuộc chiến Iraq nơi những người lính Mỹ trẻ đánh mất sự ngây thơ của họ qua góc nhìn của người cha từng theo nghiệp lính suốt đời. Các đoạn phim quay bằng máy điện thoại di động bị hỏng, được một tay rành máy móc phục hồi, đã hé mở cho thấy nỗi kinh hoàng của chiến tranh khi lính Mỹ tra tấn tù nhân như một trò đùa, nhấn ga xe tải cán chết em bé vì sợ dừng lại sẽ bị phục kích… Deerfield bị ám ảnh bởi cú điện thoại của con ông khi còn ở Iraq, cầu cứu ông, mong tìm nơi ông sự giải thích cho sự điên rồ của chính mình và đồng đội. Nhưng tất cả chỉ là những tiếng vọng, những hình ảnh chập chờn, như thể đạo diễn muốn tránh nói trực tiếp đến cuộc chiến hay muốn tạo ấn tượng hỗn loạn, mơ hồ như cách nhiều người Mỹ đang nghĩ về cuộc chiến Iraq hiện nay.
Tommy Lee Jones, được đề cử giải Oscar cho nam diễn viên xuất sắc trong bộ phim này, đã đóng trọn vai trò một người cha, một người cựu binh, lần mò theo các dấu vết để tìm con. Người xem theo từng bước chân của ông, không phải để khám phá một vụ án hình sự, mà dấn sâu vào tâm hồn bị hủy hoại của người con, về bi kịch con người ở Iraq. Những nếp nhăn trên khuôn mặt ông dường như ngày càng sâu hơn khi ông dần dà phải chấp nhận thực tế: cuộc chiến ở Iraq đã biến con ông cũng như đồng đội anh ta thành những con người khác, nơi thú tính lấn lướt lý trí. Góc nhìn của một người cựu binh, luôn ủng hộ quân đội Mỹ, càng làm sự thức tỉnh này đau đớn hơn cho ông và cho người xem. Tommy Lee Jones hầu như không dùng thừa lời nói nào trong suốt phim, ngay cả với bà vợ đang chờ tin ở nhà nhưng nỗi đau như chảy ra từ nét nhìn sâu thẳm của ông.
Xen vào phim là một dòng chảy khác, về nữ cảnh sát Emily Sanders (Charlize Theron đóng), bị các đồng nghiệp nam quấy rối, bị ám ảnh bởi một vụ án bạo hành gia đình gây chết người mà lẽ ra cô đã có thể can thiệp. Với sự giúp đỡ của Sanders, Deerfield đã vượt qua sự thờ ơ của cảnh sát địa phương và nỗ lực che giấu sự thật của bên quân đội để tìm ra sự thật về số phận con ông.
Tựa phim có lẽ không phù hợp cho lắm vì Thung lũng Elah là nơi diễn ra cuộc đối đầu không cân sức giữa David và Goliath trong kinh Cựu Ước. Ở đây không có ai là chú bé, không có ai là gã khổng lồ; chỉ có những kẻ vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của một cuộc chiến phi lý. In the Valley of Elah dựa vào câu chuyện có thật cũng là một lính Mỹ trở về từ Iraq và bị đâm chết cách đây mấy năm. Đạo diễn kiêm tác giả kịch bản Haggis đã đổi địa danh, tên tuổi và thêm những chi tiết có thật ông khai thác từ những cựu binh khác để dựng phim này. Haggis cũng là tác giả hay đồng tác giả những kịch bản phim nổi tiếng khác như Million Dollar Baby, Letters from Iwo Jima…
Dòng phim về cuộc chiến Iraq không thành công về mặt doanh thu. Mặc dù được đánh giá cao bởi những nhà phê bình phim ở Mỹ, In the Valley of Elah chỉ thu được 6,7 triệu đô-la, có lẽ vì phim đi ngược lối kết phim có hậu của Hollywood, cũng không phải là loại phim vừa xem vừa nhai bắp rang. Bộ phim “Rendition” cũng chỉ thu về 9,7 triệu đô-la và “Lambs for Lions” cũng thất bại trong phòng vé. Ngay cả phim “Kingdom” chỉ thu về 47 triệu đô-la trong khi chi phí lên đến 80 triệu đô-la. Dù sao, góc nhìn gián tiếp của phim lại thuyết phục hơn, buộc người xem suy nghĩ nhiều hơn so với những phim tương tự trực tiếp khai thác tâm lý suy sụp của cựu binh Mỹ khi trở về cuộc sống bình thường.
Thứ Năm, 27 tháng 12, 2007
Noi khong - noi co
Bao giờ thôi “nói không” để bắt đầu nói có?
Nguyễn Vạn Phú
Ngành giáo dục nước ta đang dùng biện pháp chống để xây. Từ phong trào “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” được mở rộng thêm nhiều “nói không” nữa như không ngồi nhầm lớp, không vi phạm đạo đức nhà giáo…
Để giải quyết một vấn đề thường có nhiều cách tiếp cận; chống để xây cũng là một cách nhưng thường là cách “đối đế” lắm mới áp dụng, nhất là trong chuyện dạy và học. Sau một thời gian đầu quan sát và ghi nhận, dường như xã hội đã mất kiên nhẫn, như nhận xét của một nhà nghiên cứu: Bao giờ ngành giáo dục thôi “nói không” để bắt đầu nói có!
Trong một gia đình nếu bố mẹ cứ chăm chăm vào lỗi lầm của con, la mắng trách phạt chúng vì những lỗi lầm ấy, rất dễ tiên đoán con cái họ sẽ khó lòng vượt lên mặc cảm là kẻ “hậu đậu” và rất có thể chúng sẽ trở thành những con người như thế. Trong một tổ chức, nếu cấp quản lý chỉ biết nhìn vào khuyết điểm của nhân viên để đánh giá họ, chắc chắn ưu tiên số một của nhân viên là cố gắng tránh mắc khuyết điểm chứ không phải là nâng hiệu năng làm việc.
Sau các phong trào nói không, ngành giáo dục được những gì? Số học sinh bỏ học ngày càng tăng đến mức báo động, hàng loạt vụ giáo viên dùng vũ lực hay nhờ cơ quan công lực đối phó với học sinh bị vạch trần… Đây là hệ quả ắt phải xảy ra khi chúng ta chú ý đến khía cạnh tiêu cực của vấn đề và xin nói ngay, người viết hoàn toàn không phản bác hay chối bỏ thực tế là nhiều học sinh đang ngồi nhầm lớp, nhiều giáo viên không được đào tạo đúng mực về đạo đức của người thầy và những vụ việc được đưa ra công luận hoàn toàn xác đáng. Tuy nhiên, đọng lại sau những câu chuyện rộ lên lúc này, lúc khác là một tâm lý bi quan bao trùm ngành sư phạm. Nhiều nhà giáo đáng kính nói với người viết họ sẽ không còn an tâm bỏ công sức và tâm huyết cho học sinh nữa, chúng có hư hỏng, mặc chúng, họ sẽ chỉ dạy cho hết giờ, hết việc. Bởi họ không muốn bị dùi xuống vũng bùn dư luận chỉ vì một lúc nào đó lỡ tay “bạt tai” một học sinh hư. Đây là hiện trạng của nền giáo dục Mỹ nơi người thầy không muốn làm gì vượt quá yêu cầu vì sợ bị phụ huynh kiện cáo. Không lẽ đến lúc người thầy ở một nước tôn sự trọng đạo như Việt Nam cũng phải áp dụng chiến thuật “mũi ni che tai” để xin hai chữ bình yên?
Nhìn sự việc ở góc độ tiêu cực, sẽ chỉ thấy những giải pháp để chống tiêu cực – và thường không thành công. Sinh viên vay tiền để học không trả, cách ghi nợ lên bằng là cách dễ nhất nhưng như dư luận những ngày gần đây cho thấy, đó không phải là cách áp dụng cho ngành giáo dục. Cũng những vấn đề hiện nay của ngành giáo dục nhưng nhìn ở góc độ khác, sẽ thấy ngay nhiều biện pháp khác, nghiêng về “nói có” chứ không cần “nói không”. Tiêu cực trong thi cử? Tại sao không giảm hẳn tầm mức quan trọng chúng ta đang gắn cho các kỳ thi, chẳng hạn xét cả quá trình học tập và hoạt động ngoại khóa của học sinh thay vì chỉ dựa vào điểm thi tuyển sinh. Bệnh thành tích? Tại sao không đánh giá thành tích của nhà trường bằng những tiêu chí khách quan thay vì chủ quan để dễ xảy ra tiêu cực. Số lượng sinh viên ra trường có ngay việc làm là một tiêu chí không thể biến báo được để chạy thành tích.
Ngày xưa người viết bài từng có 10 năm đi dạy học và rất tiếc cũng bị góc nhìn tiêu cực cuốn hút. Chấm bài học sinh chỉ chăm chăm tìm lỗi để gạch đỏ và trừ điểm, chỉ quan tâm học sinh viết thiếu ý gì so với đáp án để lấy bớt điểm ra. Vì thế, người viết rất ngạc nhiên thấy giáo viên nước ngoài ít khi chú ý đến lỗi ngữ pháp mà chỉ xem học sinh có diễn đạt được ý các em muốn nói hay không. Nói cách khác, cách tiếp cận của họ là tìm chỗ đúng để cho điểm thay vì tìm chỗ sai để trừ điểm. Ở trường hợp đầu học sinh cố gắng viết sao cho đừng sai ngữ pháp nên câu văn sáo rỗng, khô khan, cứng nhắc; trường hợp sau học sinh được mặc sức sáng tạo trong bài viết và trong quá trình đó, các em phải tìm cách viết ngày càng chính xác hơn để diễn đạt hay hơn sự sáng tạo này.
Căn bệnh hiện nay của ngành giáo dục không thể chữa chỉ bằng cách “nói không”. Phải tôn trọng giáo viên, phải xem họ là một tác nhân chủ động của công cuộc cải cách giáo dục chứ không phải là “đối tượng” bị cải cách. Trao quyền rộng rãi hơn cho nhà giáo, sự tự chủ cho nhà trường để họ có trách nhiệm trong việc đào tạo học sinh chính là bước đi đầu tiên ở hướng “nói có” này.
Nguyễn Vạn Phú
Ngành giáo dục nước ta đang dùng biện pháp chống để xây. Từ phong trào “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” được mở rộng thêm nhiều “nói không” nữa như không ngồi nhầm lớp, không vi phạm đạo đức nhà giáo…
Để giải quyết một vấn đề thường có nhiều cách tiếp cận; chống để xây cũng là một cách nhưng thường là cách “đối đế” lắm mới áp dụng, nhất là trong chuyện dạy và học. Sau một thời gian đầu quan sát và ghi nhận, dường như xã hội đã mất kiên nhẫn, như nhận xét của một nhà nghiên cứu: Bao giờ ngành giáo dục thôi “nói không” để bắt đầu nói có!
Trong một gia đình nếu bố mẹ cứ chăm chăm vào lỗi lầm của con, la mắng trách phạt chúng vì những lỗi lầm ấy, rất dễ tiên đoán con cái họ sẽ khó lòng vượt lên mặc cảm là kẻ “hậu đậu” và rất có thể chúng sẽ trở thành những con người như thế. Trong một tổ chức, nếu cấp quản lý chỉ biết nhìn vào khuyết điểm của nhân viên để đánh giá họ, chắc chắn ưu tiên số một của nhân viên là cố gắng tránh mắc khuyết điểm chứ không phải là nâng hiệu năng làm việc.
Sau các phong trào nói không, ngành giáo dục được những gì? Số học sinh bỏ học ngày càng tăng đến mức báo động, hàng loạt vụ giáo viên dùng vũ lực hay nhờ cơ quan công lực đối phó với học sinh bị vạch trần… Đây là hệ quả ắt phải xảy ra khi chúng ta chú ý đến khía cạnh tiêu cực của vấn đề và xin nói ngay, người viết hoàn toàn không phản bác hay chối bỏ thực tế là nhiều học sinh đang ngồi nhầm lớp, nhiều giáo viên không được đào tạo đúng mực về đạo đức của người thầy và những vụ việc được đưa ra công luận hoàn toàn xác đáng. Tuy nhiên, đọng lại sau những câu chuyện rộ lên lúc này, lúc khác là một tâm lý bi quan bao trùm ngành sư phạm. Nhiều nhà giáo đáng kính nói với người viết họ sẽ không còn an tâm bỏ công sức và tâm huyết cho học sinh nữa, chúng có hư hỏng, mặc chúng, họ sẽ chỉ dạy cho hết giờ, hết việc. Bởi họ không muốn bị dùi xuống vũng bùn dư luận chỉ vì một lúc nào đó lỡ tay “bạt tai” một học sinh hư. Đây là hiện trạng của nền giáo dục Mỹ nơi người thầy không muốn làm gì vượt quá yêu cầu vì sợ bị phụ huynh kiện cáo. Không lẽ đến lúc người thầy ở một nước tôn sự trọng đạo như Việt Nam cũng phải áp dụng chiến thuật “mũi ni che tai” để xin hai chữ bình yên?
Nhìn sự việc ở góc độ tiêu cực, sẽ chỉ thấy những giải pháp để chống tiêu cực – và thường không thành công. Sinh viên vay tiền để học không trả, cách ghi nợ lên bằng là cách dễ nhất nhưng như dư luận những ngày gần đây cho thấy, đó không phải là cách áp dụng cho ngành giáo dục. Cũng những vấn đề hiện nay của ngành giáo dục nhưng nhìn ở góc độ khác, sẽ thấy ngay nhiều biện pháp khác, nghiêng về “nói có” chứ không cần “nói không”. Tiêu cực trong thi cử? Tại sao không giảm hẳn tầm mức quan trọng chúng ta đang gắn cho các kỳ thi, chẳng hạn xét cả quá trình học tập và hoạt động ngoại khóa của học sinh thay vì chỉ dựa vào điểm thi tuyển sinh. Bệnh thành tích? Tại sao không đánh giá thành tích của nhà trường bằng những tiêu chí khách quan thay vì chủ quan để dễ xảy ra tiêu cực. Số lượng sinh viên ra trường có ngay việc làm là một tiêu chí không thể biến báo được để chạy thành tích.
Ngày xưa người viết bài từng có 10 năm đi dạy học và rất tiếc cũng bị góc nhìn tiêu cực cuốn hút. Chấm bài học sinh chỉ chăm chăm tìm lỗi để gạch đỏ và trừ điểm, chỉ quan tâm học sinh viết thiếu ý gì so với đáp án để lấy bớt điểm ra. Vì thế, người viết rất ngạc nhiên thấy giáo viên nước ngoài ít khi chú ý đến lỗi ngữ pháp mà chỉ xem học sinh có diễn đạt được ý các em muốn nói hay không. Nói cách khác, cách tiếp cận của họ là tìm chỗ đúng để cho điểm thay vì tìm chỗ sai để trừ điểm. Ở trường hợp đầu học sinh cố gắng viết sao cho đừng sai ngữ pháp nên câu văn sáo rỗng, khô khan, cứng nhắc; trường hợp sau học sinh được mặc sức sáng tạo trong bài viết và trong quá trình đó, các em phải tìm cách viết ngày càng chính xác hơn để diễn đạt hay hơn sự sáng tạo này.
Căn bệnh hiện nay của ngành giáo dục không thể chữa chỉ bằng cách “nói không”. Phải tôn trọng giáo viên, phải xem họ là một tác nhân chủ động của công cuộc cải cách giáo dục chứ không phải là “đối tượng” bị cải cách. Trao quyền rộng rãi hơn cho nhà giáo, sự tự chủ cho nhà trường để họ có trách nhiệm trong việc đào tạo học sinh chính là bước đi đầu tiên ở hướng “nói có” này.
Thứ Tư, 28 tháng 11, 2007
Tien cho giao duc
Tiền cho giáo dục đi về đâu?
Nguyễn Vạn Phú
Báo cáo “Giáo dục Việt Nam – Đầu tư và Cơ cấu Tài chính” của Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp những con số thú vị mà nếu phân tích kỹ, có lẽ các nhà hoạch định chính sách giáo dục sẽ thay đổi quan điểm đang theo đuổi.
Số học sinh trung học sẽ giảm mạnh
Mặc dù dân số Việt Nam nhìn chung tăng từ 77,6 triệu năm 2000 lên 84,2 năm 2006 nhưng dân số trong độ tuổi 6-10 đã giảm mạnh, năm 2000 là trên 9 triệu thì đến năm 2006 chỉ còn 6,8 triệu. Chính vì thế số lượng học sinh tiểu học đã giảm mạnh trong những năm qua, từ 9,7 triệu năm 2000 còn 7 triệu năm 2006, một mức giảm gần 3 triệu học sinh (xin nói thêm báo cáo có giải thích tỷ lệ đi học ở cấp tiểu học còn cao hơn số lượng các em trong độ tuổi này vì có nhiều em quá 10 tuổi vẫn còn học tiểu học).
Trong lúc đó, dân số trong độ tuổi 11-14 có giảm trong những năm qua nhưng tỷ lệ giảm không đáng kể, còn số lượng dân số trong độ tuổi 15-17 hầu như không thay đổi. Như vậy, rất có thể số lượng học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông trong những năm sắp tới sẽ giảm mạnh nếu vẫn duy trì số học sinh tronh độ tuổi đi học như hiện nay. Không biết Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tính đến đặc điểm cơ cấu dân số này chưa khi lập kế hoạch cho những năm sắp tới, kể cả đội ngũ giáo viên, trường lớp, ngân sách và các nguồn lực khác. Nếu số học sinh giảm mà ngân sách cho ngành giáo dục vẫn tăng đều như những năm qua, tại sao Bộ vẫn khăng khăng đòi tăng học phí? Đó là chưa kể xu hướng thành lập các trường ngoài công lập đang tăng, những trường này chia sẻ bớt số học sinh mà không đụng đến ngân sách giáo dục. Ở đây, cũng có một khả năng là trong những năm tới, khi mức sống người dân tăng lên, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học (năm 2006 là 90,33% ở cấp phổ thông cơ sở và 55,51% ở cấp phổ thông trung học) sẽ tăng. Nhưng mức tăng này, nếu xảy ra, sẽ không bằng mức giảm con số tuyệt đối gần 3 triệu học sinh nói trên.
Chi ngân sách giáo dục tăng nhanh
Theo số liệu trong báo cáo, chi từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đã tăng nhanh trong những năm qua, tăng đến trên 2,7 lần trong vòng sáu năm. Nếu như ngân sách nhà nước dành cho ngành giáo dục là 19.747 tỷ đồng năm 2001 thì con số này đến năm 2006 đã đạt mức 54.798 tỷ đồng (xem bảng 1). Trong chi ngân sách, có hai khoản gồm chi thường xuyên (trên dưới 82%) và chi đầu tư (trên dưới 18%). Cả hai khoản này đều tăng nhanh và tỷ trọng hầu như không thay đổi trong những năm qua.
Ngược lại, số học sinh phổ thông cùng trong thời gian này đã giảm 1,5 triệu em, từ 17,8 triệu năm 2000 còn 16,3 triệu năm 2006. Còn tính hết tổng số từ mầm non cho đến nghiên cứu sinh, mức tăng không đáng kể, từ 22,3 triệu người năm 2000 lên 22,9 triệu người năm 2006. Điều đáng chú ý là trong khi tiền chi ra tăng trên 270% mà đối tượng nhận lợi ích từ ngân sách này không tăng bao nhiêu thì thật khó giải thích các khoản tiền tăng này đi về đâu. Chắc chắn mức thụ hưởng của học sinh ở góc cạnh tài chính ngân sách không thể tăng 270% được rồi. Mức tăng học phí, nếu có thực hiện theo đề án của Bộ Giáo dục & Đào tạo, cũng không thể nào bằng một phần rất nhỏ của mức tăng ngân sách giáo dục hằng năm, làm sao có thể kỳ vọng vào nó để xoay chuyển chất lượng giáo dục khi thực tế đã cho thấy ngân sách ưu ái cho giáo dục như thế mà ngành này đã duy trì được chất lượng hay chưa?
Mơ hồ ngân sách giáo dục
Một đặc điểm của ngân sách giáo dục, theo báo cáo, là đến 95% được chi trực tiếp cho các địa phương hay bộ ngành khác; Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ nắm trong tay 5% thôi. Đây chính là một vùng xám cần làm rõ để biết ngân sách được cho là dành cho ngành giáo dục được sử dụng như thế nào. Thường xuyên có chuyện tỉnh hay huyện cứ tạm sử dụng phần ngân sách giáo dục vào việc khác rồi trả lại sau – từ đó mới có chuyện nợ lương giáo viên, nợ tiền đầu tư xây dựng cơ bản cho trường lớp.
Cựu Bộ trưởng Giáo dục Phạm Minh Hạc, khi trả lời phỏng vấn báo chí, đã phải than: “Tôi ở Quốc hội 2 khóa, Trung ương 3 khóa, ở cấp thứ trưởng rồi bộ trưởng, tổng cộng 21 năm cho đến lúc về hưu đã rút ra một điều là tài chính là một trong những bí hiểm nhất của các bí hiểm. Tiền Nhà nước cho bao nhiêu, ghi thế thôi chưa chắc chi đã đúng. Về đến địa phương thì bao nhiêu số đó thực chi cho giáo dục? Không ai biết.”
Thay vì loay hoay soạn thảo và bảo vệ cho đề án tăng học phí, lẽ ra Bộ Giáo dục và Đào tạo phải tìm cách giải mã “hộp đen” này. Không phải bộ giành hết ngân sách về tay mình để chi – vì đó là điều không tưởng – mà phải “lật bài ngửa” công khai hết cho người dân biết, phải đào tạo cán bộ ở cấp sở và phòng giáo dục, sao cho họ biết cách đấu tranh để địa phương phải chi đúng, chi đủ phần ngân sách đã phân bổ, phải dùng báo chí, đại biểu Quốc hội để làm sao đồng tiền ngân sách, tức cũng là tiền đóng thuế của người dân, đến đúng địa chỉ.
Cách làm tương đối khả thi là chọn một hai địa phương làm trọng điểm kiểm tra việc chi ngân sách cho ngành giáo dục, từ đó xây dựng mô hình mẫu về lương giáo viên, các khoản chi thường xuyên khác và chi đầu tư cho từng trường, tính trên số lượng học sinh… (có người tính toán rằng với mức chi thường xuyên như hiện nay, lương bình quân của giáo viên phải ở mức 3,6 triệu đồng/tháng). Người dân và ngành giáo dục ở các địa phương khác có thể đối chiếu để chất vấn lãnh đạo địa phương mình tiền chi cho giáo dục đi về đâu.
Còn đó nhiều câu hỏi khác
Những con số được trích dẫn trên đây là giả định báo cáo ““Giáo dục Việt Nam – Đầu tư và Cơ cấu Tài chính” hoàn toàn chính xác. Tuy thế, khi đọc báo cáo, người ta không thể không đặt ra những câu hỏi cho nhiều con số được đưa ra.
Xin lấy ví dụ, báo cáo viết: “Năm 2006, số trẻ 6 đến 10 tuổi là 6,81 triệu em, số học sinh tiểu học là 7,029 triệu em, chiếm tỷ lệ 103%. Tức là hầu như tất cả trẻ em ở độ tuổi tiểu học đều đi học, ngoài ra có một số trẻ em quá 10 tuổi vẫn đi học tiểu học (3%)”. Không thể nào tin được 100% học sinh trong độ tuổi đều đi học tiểu học. Báo chí đã nói khá nhiều về hiện tượng học sinh bỏ học ở các vùng khó khăn về kinh tế; chúng ta đều đã nghe nói về các nỗ lực đưa trẻ em đường phố vào các lớp học tình thương; thực tế có bao nhiêu em vì bệnh tật, vì khuyết tật và vì nhiều lý do khác đã không thể đến trường. Nếu trừ đi con số này, không biết Bộ Giáo dục và Đào tạo lấy đâu ra học sinh để cho đủ con số 100%. Nếu tính số học sinh tiểu học trên số lớp thì bình quân mỗi lớp chỉ có 26 em, một con số lý tưởng và không có trong thực tế. Tình hình cũng tương tự khi tính chung số học sinh phổ thông trên số lớp phổ thông thì mỗi lớp chỉ có bình quân 32,4 em!
Báo cáo cho biết nguồn vốn vay ODA cho ngành giáo dục hằng năm khoảng từ 4.200 đến 4.600 tỷ đồng – tức ở mức 260 triệu đến 280 triệu đô-la Mỹ (riêng năm 2006 chỉ còn 1.200 tỷ đồng tương đương với chừng 75 triệu đô-la Mỹ). Cứ tạm cho con số này là chính xác, và lấy số liệu năm 2005 cho dễ hình dung, chúng ta thấy nguồn vốn vay ODA (4.640 tỷ đồng) chiếm trên 10% tổng chi ngân sách cho giáo dục (42.943 tỷ đồng); chiếm trên 60% khoản chi đầu tư cho giáo dục (7.226 tỷ đồng). Đây là một tỷ lệ không nhỏ chút nào nhưng hầu như không thấy Bộ Giáo dục & Đào tạo phân tích, giải trình trong báo này hay các báo cáo trước người dân.
Cách so sánh chi phí học tập trên thu nhập của hộ gia đình của báo cáo cũng không ổn vì chỉ dùng các phép tính đơn giản để kết luận thu nhập bình quân hộ gia đình 3 người (có 1 người đi học) ở thành thị là 3,2 triệu/tháng và ở nông thôn là 1,5 triệu/tháng; hộ 4 người (có 2 người đi học) ở thành thị là 4,2 triệu/tháng và ở nông thôn là 2 triệu/tháng. Hai vợ chồng ở nông thôn làm sao có thu nhập 2 triệu đồng mỗi tháng? Bình quân thu nhập GDP đầu người là chia đều, nếu có những người thu nhập cả mấy trăm triệu mỗi tháng thì sẽ có những người hầu như không có thu nhập. Hơn nữa, chỉ nhìn những con số trên cũng đã thấy cực kỳ phi lý, thu nhập ở gia đình gồm bố mẹ và 2 con đang đi học tăng nhiều so với gia đình gồm bố mẹ và 1 con đang đi học, khoảng tăng 1 triệu đồng này lấy ở đâu ra?
Xin ngưng tính toán đơn thuần trên giấy mà hãy tổ chức khảo sát thực tế để có thể đưa ra những nhận định chính xác và chính sách hợp lòng dân.
Nguyễn Vạn Phú
Báo cáo “Giáo dục Việt Nam – Đầu tư và Cơ cấu Tài chính” của Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp những con số thú vị mà nếu phân tích kỹ, có lẽ các nhà hoạch định chính sách giáo dục sẽ thay đổi quan điểm đang theo đuổi.
Số học sinh trung học sẽ giảm mạnh
Mặc dù dân số Việt Nam nhìn chung tăng từ 77,6 triệu năm 2000 lên 84,2 năm 2006 nhưng dân số trong độ tuổi 6-10 đã giảm mạnh, năm 2000 là trên 9 triệu thì đến năm 2006 chỉ còn 6,8 triệu. Chính vì thế số lượng học sinh tiểu học đã giảm mạnh trong những năm qua, từ 9,7 triệu năm 2000 còn 7 triệu năm 2006, một mức giảm gần 3 triệu học sinh (xin nói thêm báo cáo có giải thích tỷ lệ đi học ở cấp tiểu học còn cao hơn số lượng các em trong độ tuổi này vì có nhiều em quá 10 tuổi vẫn còn học tiểu học).
Trong lúc đó, dân số trong độ tuổi 11-14 có giảm trong những năm qua nhưng tỷ lệ giảm không đáng kể, còn số lượng dân số trong độ tuổi 15-17 hầu như không thay đổi. Như vậy, rất có thể số lượng học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông trong những năm sắp tới sẽ giảm mạnh nếu vẫn duy trì số học sinh tronh độ tuổi đi học như hiện nay. Không biết Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tính đến đặc điểm cơ cấu dân số này chưa khi lập kế hoạch cho những năm sắp tới, kể cả đội ngũ giáo viên, trường lớp, ngân sách và các nguồn lực khác. Nếu số học sinh giảm mà ngân sách cho ngành giáo dục vẫn tăng đều như những năm qua, tại sao Bộ vẫn khăng khăng đòi tăng học phí? Đó là chưa kể xu hướng thành lập các trường ngoài công lập đang tăng, những trường này chia sẻ bớt số học sinh mà không đụng đến ngân sách giáo dục. Ở đây, cũng có một khả năng là trong những năm tới, khi mức sống người dân tăng lên, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học (năm 2006 là 90,33% ở cấp phổ thông cơ sở và 55,51% ở cấp phổ thông trung học) sẽ tăng. Nhưng mức tăng này, nếu xảy ra, sẽ không bằng mức giảm con số tuyệt đối gần 3 triệu học sinh nói trên.
Chi ngân sách giáo dục tăng nhanh
Theo số liệu trong báo cáo, chi từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đã tăng nhanh trong những năm qua, tăng đến trên 2,7 lần trong vòng sáu năm. Nếu như ngân sách nhà nước dành cho ngành giáo dục là 19.747 tỷ đồng năm 2001 thì con số này đến năm 2006 đã đạt mức 54.798 tỷ đồng (xem bảng 1). Trong chi ngân sách, có hai khoản gồm chi thường xuyên (trên dưới 82%) và chi đầu tư (trên dưới 18%). Cả hai khoản này đều tăng nhanh và tỷ trọng hầu như không thay đổi trong những năm qua.
Ngược lại, số học sinh phổ thông cùng trong thời gian này đã giảm 1,5 triệu em, từ 17,8 triệu năm 2000 còn 16,3 triệu năm 2006. Còn tính hết tổng số từ mầm non cho đến nghiên cứu sinh, mức tăng không đáng kể, từ 22,3 triệu người năm 2000 lên 22,9 triệu người năm 2006. Điều đáng chú ý là trong khi tiền chi ra tăng trên 270% mà đối tượng nhận lợi ích từ ngân sách này không tăng bao nhiêu thì thật khó giải thích các khoản tiền tăng này đi về đâu. Chắc chắn mức thụ hưởng của học sinh ở góc cạnh tài chính ngân sách không thể tăng 270% được rồi. Mức tăng học phí, nếu có thực hiện theo đề án của Bộ Giáo dục & Đào tạo, cũng không thể nào bằng một phần rất nhỏ của mức tăng ngân sách giáo dục hằng năm, làm sao có thể kỳ vọng vào nó để xoay chuyển chất lượng giáo dục khi thực tế đã cho thấy ngân sách ưu ái cho giáo dục như thế mà ngành này đã duy trì được chất lượng hay chưa?
Mơ hồ ngân sách giáo dục
Một đặc điểm của ngân sách giáo dục, theo báo cáo, là đến 95% được chi trực tiếp cho các địa phương hay bộ ngành khác; Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ nắm trong tay 5% thôi. Đây chính là một vùng xám cần làm rõ để biết ngân sách được cho là dành cho ngành giáo dục được sử dụng như thế nào. Thường xuyên có chuyện tỉnh hay huyện cứ tạm sử dụng phần ngân sách giáo dục vào việc khác rồi trả lại sau – từ đó mới có chuyện nợ lương giáo viên, nợ tiền đầu tư xây dựng cơ bản cho trường lớp.
Cựu Bộ trưởng Giáo dục Phạm Minh Hạc, khi trả lời phỏng vấn báo chí, đã phải than: “Tôi ở Quốc hội 2 khóa, Trung ương 3 khóa, ở cấp thứ trưởng rồi bộ trưởng, tổng cộng 21 năm cho đến lúc về hưu đã rút ra một điều là tài chính là một trong những bí hiểm nhất của các bí hiểm. Tiền Nhà nước cho bao nhiêu, ghi thế thôi chưa chắc chi đã đúng. Về đến địa phương thì bao nhiêu số đó thực chi cho giáo dục? Không ai biết.”
Thay vì loay hoay soạn thảo và bảo vệ cho đề án tăng học phí, lẽ ra Bộ Giáo dục và Đào tạo phải tìm cách giải mã “hộp đen” này. Không phải bộ giành hết ngân sách về tay mình để chi – vì đó là điều không tưởng – mà phải “lật bài ngửa” công khai hết cho người dân biết, phải đào tạo cán bộ ở cấp sở và phòng giáo dục, sao cho họ biết cách đấu tranh để địa phương phải chi đúng, chi đủ phần ngân sách đã phân bổ, phải dùng báo chí, đại biểu Quốc hội để làm sao đồng tiền ngân sách, tức cũng là tiền đóng thuế của người dân, đến đúng địa chỉ.
Cách làm tương đối khả thi là chọn một hai địa phương làm trọng điểm kiểm tra việc chi ngân sách cho ngành giáo dục, từ đó xây dựng mô hình mẫu về lương giáo viên, các khoản chi thường xuyên khác và chi đầu tư cho từng trường, tính trên số lượng học sinh… (có người tính toán rằng với mức chi thường xuyên như hiện nay, lương bình quân của giáo viên phải ở mức 3,6 triệu đồng/tháng). Người dân và ngành giáo dục ở các địa phương khác có thể đối chiếu để chất vấn lãnh đạo địa phương mình tiền chi cho giáo dục đi về đâu.
Còn đó nhiều câu hỏi khác
Những con số được trích dẫn trên đây là giả định báo cáo ““Giáo dục Việt Nam – Đầu tư và Cơ cấu Tài chính” hoàn toàn chính xác. Tuy thế, khi đọc báo cáo, người ta không thể không đặt ra những câu hỏi cho nhiều con số được đưa ra.
Xin lấy ví dụ, báo cáo viết: “Năm 2006, số trẻ 6 đến 10 tuổi là 6,81 triệu em, số học sinh tiểu học là 7,029 triệu em, chiếm tỷ lệ 103%. Tức là hầu như tất cả trẻ em ở độ tuổi tiểu học đều đi học, ngoài ra có một số trẻ em quá 10 tuổi vẫn đi học tiểu học (3%)”. Không thể nào tin được 100% học sinh trong độ tuổi đều đi học tiểu học. Báo chí đã nói khá nhiều về hiện tượng học sinh bỏ học ở các vùng khó khăn về kinh tế; chúng ta đều đã nghe nói về các nỗ lực đưa trẻ em đường phố vào các lớp học tình thương; thực tế có bao nhiêu em vì bệnh tật, vì khuyết tật và vì nhiều lý do khác đã không thể đến trường. Nếu trừ đi con số này, không biết Bộ Giáo dục và Đào tạo lấy đâu ra học sinh để cho đủ con số 100%. Nếu tính số học sinh tiểu học trên số lớp thì bình quân mỗi lớp chỉ có 26 em, một con số lý tưởng và không có trong thực tế. Tình hình cũng tương tự khi tính chung số học sinh phổ thông trên số lớp phổ thông thì mỗi lớp chỉ có bình quân 32,4 em!
Báo cáo cho biết nguồn vốn vay ODA cho ngành giáo dục hằng năm khoảng từ 4.200 đến 4.600 tỷ đồng – tức ở mức 260 triệu đến 280 triệu đô-la Mỹ (riêng năm 2006 chỉ còn 1.200 tỷ đồng tương đương với chừng 75 triệu đô-la Mỹ). Cứ tạm cho con số này là chính xác, và lấy số liệu năm 2005 cho dễ hình dung, chúng ta thấy nguồn vốn vay ODA (4.640 tỷ đồng) chiếm trên 10% tổng chi ngân sách cho giáo dục (42.943 tỷ đồng); chiếm trên 60% khoản chi đầu tư cho giáo dục (7.226 tỷ đồng). Đây là một tỷ lệ không nhỏ chút nào nhưng hầu như không thấy Bộ Giáo dục & Đào tạo phân tích, giải trình trong báo này hay các báo cáo trước người dân.
Cách so sánh chi phí học tập trên thu nhập của hộ gia đình của báo cáo cũng không ổn vì chỉ dùng các phép tính đơn giản để kết luận thu nhập bình quân hộ gia đình 3 người (có 1 người đi học) ở thành thị là 3,2 triệu/tháng và ở nông thôn là 1,5 triệu/tháng; hộ 4 người (có 2 người đi học) ở thành thị là 4,2 triệu/tháng và ở nông thôn là 2 triệu/tháng. Hai vợ chồng ở nông thôn làm sao có thu nhập 2 triệu đồng mỗi tháng? Bình quân thu nhập GDP đầu người là chia đều, nếu có những người thu nhập cả mấy trăm triệu mỗi tháng thì sẽ có những người hầu như không có thu nhập. Hơn nữa, chỉ nhìn những con số trên cũng đã thấy cực kỳ phi lý, thu nhập ở gia đình gồm bố mẹ và 2 con đang đi học tăng nhiều so với gia đình gồm bố mẹ và 1 con đang đi học, khoảng tăng 1 triệu đồng này lấy ở đâu ra?
Xin ngưng tính toán đơn thuần trên giấy mà hãy tổ chức khảo sát thực tế để có thể đưa ra những nhận định chính xác và chính sách hợp lòng dân.
Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2007
Câu hỏi chưa có câu trả lời
Các thành viên của Chính phủ đã trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội vào cuối tuần trước và đầu tuần này. Nhiều vấn đề được nêu lên, nhiều giải pháp và lời hứa hẹn được đưa ra. Nhưng dường như cảm nhận chung từ các phiên chất vấn này là nội dung chất vấn bị lập lại và cách trả lời cũng giống như các phiên họp trước đây. Hàng chục triệu cử tri ắt sẽ có hàng triệu câu hỏi, không thể trông chờ các câu hỏi và trả lời ở các phiên chất vấn sẽ thỏa mãn hết mọi người.
Vậy cái thiếu ở những phiên chất vấn này là gì, có cách làm nào khác hay hơn để thỏa mãn được đa số cử tri hơn? Theo chúng tôi, điều cần nhất ở các thành viên đang đảm đương những nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy Chính phủ là một tầm nhìn giúp xác định được vấn đề cần giải quyết, cả ngắn hạn và dài hạn, cũng như quyết tâm theo đuổi, đấu tranh để thực hiện các giải pháp đi liền với tầm nhìn này.
Cho đến nay không ai không ý thức được mức độ nghiêm trọng của các vấn đề xã hội, từ nạn kẹt xe, ô nhiễm môi trường đến chất lượng giáo dục, tham nhũng của công, giá cả tăng vọt… Vấn đề là ở cương vị người đứng đầu các ngành, các bộ trưởng đã xây dựng cho mình tầm nhìn như thế nào về các vấn nạn xã hội đang phải đương đầu, giải pháp nào để vượt qua chúng, những trở ngại nào khi thực hiện các giải pháp ấy. Tất cả phải xuất phát từ một sự bức xúc của người chịu trách nhiệm để chuyển tải tinh thần tập trung giải quyết vấn đề theo đúng nguyện vọng của cử tri đến tận mọi cấp trong bộ máy của mình.
Phiên chất vấn không chỉ là lúc người bộ trưởng phải chật vật tìm cách trả lời thắc mắc của cử tri hay vượt qua sự truy hỏi của đại biểu Quốc hội. Cũng phải xem đây là dịp người bộ trưởng trình bày quan điểm, lộ trình và kế hoạch của mình, thuyết phục Quốc hội cung cấp đủ cho mình những công cụ, kể cả tài chính hay sửa đổi luật lệ, để thực hiện tầm nhìn đó. Xin lấy ví dụ, phiên chất vấn không thể là nơi Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo đôi co với đại biểu Quốc hội về trọng lượng của cặp học sinh, 3 ký hay 4 ký! Đây cũng không phải là nơi người đứng đầu ngành giáo dục than phiền về chất lượng đào tạo tiến sĩ của nước nhà. Điều cử tri trông đợi là ngành giáo dục sẽ làm gì để nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ, hay xa hơn, chất lượng đó gắn với cách sử dụng tiến sĩ của xã hội như thế nào. Kêu gọi người không có điều mới không nên “làm tiến sĩ” là lạc hướng giải quyết vì bộ máy ngành giáo dục hoàn toàn có thể đánh giá và phải có trách nhiệm đánh giá một luận án tiến sĩ có đóng góp gì mới cho xã hội không. Hoặc một Bộ trưởng Giao thông Vận tải không thể nào trả lời chính xác vì sao một dự án cụ thể có công trình cầu đường không đồng bộ. Nhưng người bộ trưởng phải có giải pháp xóa bỏ sự không đồng bộ này ở mọi dự án, thậm chí bằng cách đề nghị Quốc hội sửa đổi cơ chế, quy định có thể gây ra tình trạng này.
Chúng ta trông đợi các phiên chất vấn tương lai sẽ là diễn đàn để các thành viên Chính phủ cho cử tri thấy họ đã trăn trở với các vấn đề của đất nước thuộc trách nhiệm của họ như thế nào. Lúc đó, không cần chất vấn, đại biểu hay cử tri đối chiếu câu hỏi của mình với tầm nhìn hay giải pháp chung đã được trình bày ắt sẽ tự mình tìm thấy ngay câu trả lời cần có.
Ai chịu trách nhiệm?
Thủ đoạn lừa đảo của cái gọi là tập đoàn Colony Invest và những đường dây tương tự rất đơn giản, thậm chí thô thiển vì đánh vào lòng tham của con người với mức lãi suất hứa hẹn lên đến 3%/ngày. Vì thế ngay khi nhóm lừa đảo này bắt đầu mồi chài người dân, báo chí đã phát hiện và đã lên tiếng cảnh báo ngay từ những tháng đầu năm nay. Điều đáng nói là từ đó cho đến cuối tuần trước, không hề có một cơ quan chức năng chính thức nào đưa ra phát biểu mang tính cảnh báo cho người dân. Và có lẽ đến khi kết thúc vụ án lừa đảo quy mô hàng vạn người này, cũng sẽ chẳng có cơ quan nào chịu trách nhiệm cho sự chậm trễ này để cuối cùng nạn nhân vẫn là những người dân nghèo, cả tin và dễ bị lường gạt.
Thử nhìn lại những tháng qua, sau khi báo chí đã có những bài điều tra về loại hình lừa đảo này, có thể có cơ quan nào đứng ra làm nhiệm vụ cảnh giác cho xã hội? Chúng ta còn nhớ cách đây không lâu, Ngân hàng Nhà nước đã dự thảo cho Chính phủ ban hành Nghị định 74 về việc chống rửa tiền, trong đó các tổ chức tín dụng phải giám sát và báo cáo các trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ, đặc biệt là những khoản giao dịch có tổng giá trị từ 200 triệu đồng trở lên trong ngày. Nhóm lừa đảo này bị báo chí ghi rõ tên tuổi; giao dịch cũng thực hiện qua nhiều ngân hàng với các khoản tiền tỉ đồng trở lên. Sao chẳng thấy ai lên tiếng? Ngân hàng Nhà nước lẽ ra đã có thể sử dụng các kênh truyền thông, nhất là truyền hình hay phát thanh để phân tích một cách đơn giản nhất cho người dân thấy bản chất của sự lừa đảo, nhất là khi có dấu hiệu vi phạm các quy định liên quan đến lĩnh vực cơ quan này phụ trách.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các sở kế hoạch và đầu tư ở các tỉnh thành ắt biết rõ mình chưa bao giờ cấp phép cho loại hình kinh doanh này, cũng như chưa bao giờ cấp phép cho Colony Invest, tại sao không họp báo nói rõ sự thật để giúp giảm bớt số người bị lừa. Cơ quan an ninh mạng, từng phối hợp rất nhanh chóng với cơ quan điều tra trong những vụ như truy tìm thủ phạm tung phim sex lên mạng, sao không thấy phản ứng gì, để mặc cho đường dây này “lòe mắt” những người nông dân với những kỹ xảo như username (tên để truy cập) hay password (mật mã).
Đáng nói nhất là chính quyền cơ sở ở các địa phương, lẽ ra khi nắm được sự việc đang diễn ra tại địa phương mình, phải nhanh chóng tìm hiểu vấn đề, liên lạc với các cơ quan chức năng để được hỗ trợ về kiến thức hay nghiệp vụ chuyên môn. Chỉ khi cán bộ cơ sở làm việc với tinh thần “chức trách” cao như thế, họ mới có đủ khả năng ngăn chặn các hoạt động lừa đảo trên địa bàn của mình.
Vụ Colony Invest rồi cũng sẽ trôi qua với những bản án dành cho những kẻ lợi dụng sự thiếu hiểu biết và thiếu cơ hội làm ăn của người dân nghèo. Vấn đề là các cơ quan nhà nước rút ra được bài học gì để trong tương lai có thể ngăn chặn ngay một vụ tương tự, không để hàng vạn người bị mất tiền như lần này? Cần tập huấn những gì cho cán bộ địa phương bên cạnh các bài giảng chính trị? Cần có cơ chế phối hợp như thế nào giữa các cơ quan nhà nước để định rõ trách nhiệm của từng cơ quan? Và cuối cùng, phải làm gì để khắc phục một não trạng phổ biến hiện nay tại nhiều cơ quan: Chuyện đó không thuộc trách nhiệm của chúng tôi?
Các thành viên của Chính phủ đã trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội vào cuối tuần trước và đầu tuần này. Nhiều vấn đề được nêu lên, nhiều giải pháp và lời hứa hẹn được đưa ra. Nhưng dường như cảm nhận chung từ các phiên chất vấn này là nội dung chất vấn bị lập lại và cách trả lời cũng giống như các phiên họp trước đây. Hàng chục triệu cử tri ắt sẽ có hàng triệu câu hỏi, không thể trông chờ các câu hỏi và trả lời ở các phiên chất vấn sẽ thỏa mãn hết mọi người.
Vậy cái thiếu ở những phiên chất vấn này là gì, có cách làm nào khác hay hơn để thỏa mãn được đa số cử tri hơn? Theo chúng tôi, điều cần nhất ở các thành viên đang đảm đương những nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy Chính phủ là một tầm nhìn giúp xác định được vấn đề cần giải quyết, cả ngắn hạn và dài hạn, cũng như quyết tâm theo đuổi, đấu tranh để thực hiện các giải pháp đi liền với tầm nhìn này.
Cho đến nay không ai không ý thức được mức độ nghiêm trọng của các vấn đề xã hội, từ nạn kẹt xe, ô nhiễm môi trường đến chất lượng giáo dục, tham nhũng của công, giá cả tăng vọt… Vấn đề là ở cương vị người đứng đầu các ngành, các bộ trưởng đã xây dựng cho mình tầm nhìn như thế nào về các vấn nạn xã hội đang phải đương đầu, giải pháp nào để vượt qua chúng, những trở ngại nào khi thực hiện các giải pháp ấy. Tất cả phải xuất phát từ một sự bức xúc của người chịu trách nhiệm để chuyển tải tinh thần tập trung giải quyết vấn đề theo đúng nguyện vọng của cử tri đến tận mọi cấp trong bộ máy của mình.
Phiên chất vấn không chỉ là lúc người bộ trưởng phải chật vật tìm cách trả lời thắc mắc của cử tri hay vượt qua sự truy hỏi của đại biểu Quốc hội. Cũng phải xem đây là dịp người bộ trưởng trình bày quan điểm, lộ trình và kế hoạch của mình, thuyết phục Quốc hội cung cấp đủ cho mình những công cụ, kể cả tài chính hay sửa đổi luật lệ, để thực hiện tầm nhìn đó. Xin lấy ví dụ, phiên chất vấn không thể là nơi Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo đôi co với đại biểu Quốc hội về trọng lượng của cặp học sinh, 3 ký hay 4 ký! Đây cũng không phải là nơi người đứng đầu ngành giáo dục than phiền về chất lượng đào tạo tiến sĩ của nước nhà. Điều cử tri trông đợi là ngành giáo dục sẽ làm gì để nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ, hay xa hơn, chất lượng đó gắn với cách sử dụng tiến sĩ của xã hội như thế nào. Kêu gọi người không có điều mới không nên “làm tiến sĩ” là lạc hướng giải quyết vì bộ máy ngành giáo dục hoàn toàn có thể đánh giá và phải có trách nhiệm đánh giá một luận án tiến sĩ có đóng góp gì mới cho xã hội không. Hoặc một Bộ trưởng Giao thông Vận tải không thể nào trả lời chính xác vì sao một dự án cụ thể có công trình cầu đường không đồng bộ. Nhưng người bộ trưởng phải có giải pháp xóa bỏ sự không đồng bộ này ở mọi dự án, thậm chí bằng cách đề nghị Quốc hội sửa đổi cơ chế, quy định có thể gây ra tình trạng này.
Chúng ta trông đợi các phiên chất vấn tương lai sẽ là diễn đàn để các thành viên Chính phủ cho cử tri thấy họ đã trăn trở với các vấn đề của đất nước thuộc trách nhiệm của họ như thế nào. Lúc đó, không cần chất vấn, đại biểu hay cử tri đối chiếu câu hỏi của mình với tầm nhìn hay giải pháp chung đã được trình bày ắt sẽ tự mình tìm thấy ngay câu trả lời cần có.
Ai chịu trách nhiệm?
Thủ đoạn lừa đảo của cái gọi là tập đoàn Colony Invest và những đường dây tương tự rất đơn giản, thậm chí thô thiển vì đánh vào lòng tham của con người với mức lãi suất hứa hẹn lên đến 3%/ngày. Vì thế ngay khi nhóm lừa đảo này bắt đầu mồi chài người dân, báo chí đã phát hiện và đã lên tiếng cảnh báo ngay từ những tháng đầu năm nay. Điều đáng nói là từ đó cho đến cuối tuần trước, không hề có một cơ quan chức năng chính thức nào đưa ra phát biểu mang tính cảnh báo cho người dân. Và có lẽ đến khi kết thúc vụ án lừa đảo quy mô hàng vạn người này, cũng sẽ chẳng có cơ quan nào chịu trách nhiệm cho sự chậm trễ này để cuối cùng nạn nhân vẫn là những người dân nghèo, cả tin và dễ bị lường gạt.
Thử nhìn lại những tháng qua, sau khi báo chí đã có những bài điều tra về loại hình lừa đảo này, có thể có cơ quan nào đứng ra làm nhiệm vụ cảnh giác cho xã hội? Chúng ta còn nhớ cách đây không lâu, Ngân hàng Nhà nước đã dự thảo cho Chính phủ ban hành Nghị định 74 về việc chống rửa tiền, trong đó các tổ chức tín dụng phải giám sát và báo cáo các trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ, đặc biệt là những khoản giao dịch có tổng giá trị từ 200 triệu đồng trở lên trong ngày. Nhóm lừa đảo này bị báo chí ghi rõ tên tuổi; giao dịch cũng thực hiện qua nhiều ngân hàng với các khoản tiền tỉ đồng trở lên. Sao chẳng thấy ai lên tiếng? Ngân hàng Nhà nước lẽ ra đã có thể sử dụng các kênh truyền thông, nhất là truyền hình hay phát thanh để phân tích một cách đơn giản nhất cho người dân thấy bản chất của sự lừa đảo, nhất là khi có dấu hiệu vi phạm các quy định liên quan đến lĩnh vực cơ quan này phụ trách.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các sở kế hoạch và đầu tư ở các tỉnh thành ắt biết rõ mình chưa bao giờ cấp phép cho loại hình kinh doanh này, cũng như chưa bao giờ cấp phép cho Colony Invest, tại sao không họp báo nói rõ sự thật để giúp giảm bớt số người bị lừa. Cơ quan an ninh mạng, từng phối hợp rất nhanh chóng với cơ quan điều tra trong những vụ như truy tìm thủ phạm tung phim sex lên mạng, sao không thấy phản ứng gì, để mặc cho đường dây này “lòe mắt” những người nông dân với những kỹ xảo như username (tên để truy cập) hay password (mật mã).
Đáng nói nhất là chính quyền cơ sở ở các địa phương, lẽ ra khi nắm được sự việc đang diễn ra tại địa phương mình, phải nhanh chóng tìm hiểu vấn đề, liên lạc với các cơ quan chức năng để được hỗ trợ về kiến thức hay nghiệp vụ chuyên môn. Chỉ khi cán bộ cơ sở làm việc với tinh thần “chức trách” cao như thế, họ mới có đủ khả năng ngăn chặn các hoạt động lừa đảo trên địa bàn của mình.
Vụ Colony Invest rồi cũng sẽ trôi qua với những bản án dành cho những kẻ lợi dụng sự thiếu hiểu biết và thiếu cơ hội làm ăn của người dân nghèo. Vấn đề là các cơ quan nhà nước rút ra được bài học gì để trong tương lai có thể ngăn chặn ngay một vụ tương tự, không để hàng vạn người bị mất tiền như lần này? Cần tập huấn những gì cho cán bộ địa phương bên cạnh các bài giảng chính trị? Cần có cơ chế phối hợp như thế nào giữa các cơ quan nhà nước để định rõ trách nhiệm của từng cơ quan? Và cuối cùng, phải làm gì để khắc phục một não trạng phổ biến hiện nay tại nhiều cơ quan: Chuyện đó không thuộc trách nhiệm của chúng tôi?
Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2007
Duong tinh... voi cai gi?
Dương tính… với cái gì?
Nguyễn Vạn Phú
Chắc chắn những ngày tới công luận sẽ bắt đầu lên tiếng phê phán thái độ lẫn tránh sự thật của Bộ Y tế khi miêu tả đợt dịch bệnh hiện nay ở nhiều tỉnh phía Bắc là … tiêu chảy cấp tính.
Vấn đề muốn nói ở đây là nghiệp vụ của phóng viên đã chấp nhận sự lẫn tránh này mà không chịu đi đến cùng sự thật. Thật không thể tin nổi khi đến sáng thứ Hai, ngày 5/11, vẫn còn đọc được các thông tin trên báo như thế này:
“Hiện cả nước đã có hơn 600 ca nghi mắc tiêu chảy cấp, trong đó gần 80 trường hợp dương tính với vi khuẩn tiêu chảy cấp nguy hiểm”.
“… trong ngày đã có thêm 148 ca nghi mắc bệnh tiêu chảy cấp, trong đó có 3 ca dương tính với vi khuẩn tiêu chảy cấp.”
“… riêng trong ngày hôm qua đã có thêm 148 ca nghi mắc bệnh tiêu chảy cấp, trong đó có 3 ca dương tính với vi khuẩn.”
Đó là tin trong ngày thứ Hai (5/11), lúc đó đã có bài của bác sĩ Lê Đình Phương (Bệnh viện FV) trên tờ Sài Gòn Tiếp Thị (Bệnh tả: Phải gọi đúng tên để trị đúng bệnh). Cả tuần trước đó, có những đoạn tin không thể nào hiểu được:
“… Hiện đã có 144 ca tiêu chảy đang điều trị, qua xét nghiệm ban đầu xác định 108 ca dương tính.”
Ít nhất người phóng viên khi viết đến đây cũng phải tự mình vò đầu bứt tai mà hỏi: “Dương tính? Vậy dương tính với cái gì?” Trên kia có câu “dương tính với vi khuẩn” là sao? Vi khuẩn gì? Những ca nghi mắc bệnh tiêu chảy cấp không dương tính với vi khuẩn chăng? Tiêu chảy vì stress chăng? Tiêu chảy cấp nguy hiểm là bệnh gì? Phóng viên được phân công theo dõi lãnh vực y tế tức đã có một số kiến thức y tế nhất định. Khi nghe những thông tin mà mình sẽ viết trong tin bài thì phải hỏi chứ, hỏi người phát ngôn “tiêu chảy cấp” khác với “tiêu chảy cấp nguy hiểm” ở chỗ nào? Chỉ cần hỏi và tìm câu trả lời cho các câu hỏi này, phóng viên sẽ đóng trúng vai trò chất vấn cho ra thông tin trung thực: Trong các ca tiêu chảy cấp ấy, có nhiều ca mắc bệnh tả!
Thông tin như thế có gây hoang mang, hoảng sợ trong người dân không? Cứ làm thử một cuộc thăm dò bỏ túi – cả tuần trước, hỏi nhiều người về nguy cơ lây lan “bệnh tiêu chảy cấp”, đa số trả lời “tôi đâu ăn mắm tôm đâu mà sợ mắc bệnh!” Đấy mới chính là khoảng trống thông tin sẽ gây hoang mang trong người dân khi sự thật trước sau gì cũng được phơi bày.
Cứ thử nghĩ mà xem, miền Trung hiện đang đối đầu với bão lụt. Nếu dịch tả lan vào những vùng đang bị ngập nước, mguy cơ lây lan sẽ kinh khủng như thế nào. Nhưng nếu người dân biết họ phải đối đầu với nguy cơ dịch tả, họ sẽ không chủ quan, nhớ lại những bài học kinh nghiệm dân gian (khi vẫn còn sự thiếu vắng thông tin tuyên truyền chính thống) để đối phó.
Có lẽ Bộ Y tế sợ trách nhiệm, rằng quản lý như thế nào mà để xảy ra dịch tả ở những năm đầu thế kỷ 21. Vì vậy mới có chuyện ông cục trưởng Cục Y tế dự phòng Bộ Y tế, phó trưởng ban thường trực Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch tiêu chảy cấp Nguyễn Huy Nga tuyên bố khi trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ: “Cảnh báo tiêu chảy và tả thì biện pháp phòng chống như nhau”. Xin đầu hàng! (Xin đọc thêm thông báo khẩn về “quy trình xử lý dịch tả” và “hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh tả” của Bộ Y tế lưu hành trong ngành y tế, những văn bản này thì giải thích rất rõ cách chẩn đoán phân biệt bệnh tả với các bệnh tiêu chảy khác).
Thôi, cái đó sẽ có công luận lên án và pháp luật xử lý sau. Trước mắt chỉ xin nói đến trách nhiệm của người phóng viên, làm sao để thông tin thực đến với người dân nhanh hơn, chính xác hơn.
Nguyễn Vạn Phú
Chắc chắn những ngày tới công luận sẽ bắt đầu lên tiếng phê phán thái độ lẫn tránh sự thật của Bộ Y tế khi miêu tả đợt dịch bệnh hiện nay ở nhiều tỉnh phía Bắc là … tiêu chảy cấp tính.
Vấn đề muốn nói ở đây là nghiệp vụ của phóng viên đã chấp nhận sự lẫn tránh này mà không chịu đi đến cùng sự thật. Thật không thể tin nổi khi đến sáng thứ Hai, ngày 5/11, vẫn còn đọc được các thông tin trên báo như thế này:
“Hiện cả nước đã có hơn 600 ca nghi mắc tiêu chảy cấp, trong đó gần 80 trường hợp dương tính với vi khuẩn tiêu chảy cấp nguy hiểm”.
“… trong ngày đã có thêm 148 ca nghi mắc bệnh tiêu chảy cấp, trong đó có 3 ca dương tính với vi khuẩn tiêu chảy cấp.”
“… riêng trong ngày hôm qua đã có thêm 148 ca nghi mắc bệnh tiêu chảy cấp, trong đó có 3 ca dương tính với vi khuẩn.”
Đó là tin trong ngày thứ Hai (5/11), lúc đó đã có bài của bác sĩ Lê Đình Phương (Bệnh viện FV) trên tờ Sài Gòn Tiếp Thị (Bệnh tả: Phải gọi đúng tên để trị đúng bệnh). Cả tuần trước đó, có những đoạn tin không thể nào hiểu được:
“… Hiện đã có 144 ca tiêu chảy đang điều trị, qua xét nghiệm ban đầu xác định 108 ca dương tính.”
Ít nhất người phóng viên khi viết đến đây cũng phải tự mình vò đầu bứt tai mà hỏi: “Dương tính? Vậy dương tính với cái gì?” Trên kia có câu “dương tính với vi khuẩn” là sao? Vi khuẩn gì? Những ca nghi mắc bệnh tiêu chảy cấp không dương tính với vi khuẩn chăng? Tiêu chảy vì stress chăng? Tiêu chảy cấp nguy hiểm là bệnh gì? Phóng viên được phân công theo dõi lãnh vực y tế tức đã có một số kiến thức y tế nhất định. Khi nghe những thông tin mà mình sẽ viết trong tin bài thì phải hỏi chứ, hỏi người phát ngôn “tiêu chảy cấp” khác với “tiêu chảy cấp nguy hiểm” ở chỗ nào? Chỉ cần hỏi và tìm câu trả lời cho các câu hỏi này, phóng viên sẽ đóng trúng vai trò chất vấn cho ra thông tin trung thực: Trong các ca tiêu chảy cấp ấy, có nhiều ca mắc bệnh tả!
Thông tin như thế có gây hoang mang, hoảng sợ trong người dân không? Cứ làm thử một cuộc thăm dò bỏ túi – cả tuần trước, hỏi nhiều người về nguy cơ lây lan “bệnh tiêu chảy cấp”, đa số trả lời “tôi đâu ăn mắm tôm đâu mà sợ mắc bệnh!” Đấy mới chính là khoảng trống thông tin sẽ gây hoang mang trong người dân khi sự thật trước sau gì cũng được phơi bày.
Cứ thử nghĩ mà xem, miền Trung hiện đang đối đầu với bão lụt. Nếu dịch tả lan vào những vùng đang bị ngập nước, mguy cơ lây lan sẽ kinh khủng như thế nào. Nhưng nếu người dân biết họ phải đối đầu với nguy cơ dịch tả, họ sẽ không chủ quan, nhớ lại những bài học kinh nghiệm dân gian (khi vẫn còn sự thiếu vắng thông tin tuyên truyền chính thống) để đối phó.
Có lẽ Bộ Y tế sợ trách nhiệm, rằng quản lý như thế nào mà để xảy ra dịch tả ở những năm đầu thế kỷ 21. Vì vậy mới có chuyện ông cục trưởng Cục Y tế dự phòng Bộ Y tế, phó trưởng ban thường trực Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch tiêu chảy cấp Nguyễn Huy Nga tuyên bố khi trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ: “Cảnh báo tiêu chảy và tả thì biện pháp phòng chống như nhau”. Xin đầu hàng! (Xin đọc thêm thông báo khẩn về “quy trình xử lý dịch tả” và “hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh tả” của Bộ Y tế lưu hành trong ngành y tế, những văn bản này thì giải thích rất rõ cách chẩn đoán phân biệt bệnh tả với các bệnh tiêu chảy khác).
Thôi, cái đó sẽ có công luận lên án và pháp luật xử lý sau. Trước mắt chỉ xin nói đến trách nhiệm của người phóng viên, làm sao để thông tin thực đến với người dân nhanh hơn, chính xác hơn.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Bài đăng phổ biến
-
Dưới đây là một số hình ảnh đẹp của Ngọc Trinh trong những bộ bikini sexy khoe đường cong gợi cảm. Xin mời các bạn cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp ...
-
Cùng ngắm bộ sưu tập ảnh gái đẹp khoe hàng nóng bỏng nhất, ảnh hot girl sở hữu vòng 1 cực khủng tại thugian180. Góc thư giãn luôn cập nhật c...
-
Hiện nay trào lưu khoe hàng của các hot girl ngày càng rầm rộ. Các hot girl đua nhau tung ảnh nóng để được gia nhập vào giới Showbit. Chính...
-
Tuyển chọn những bộ ảnh gái đẹp nóng bỏng khoe hàng cực sexy. Dưới đây là chùm ảnh nóng và gợi cảm của những hot girl khoe vòng 1 siêu khủ...
-
Bộ sưu tập khung ảnh đẹp nhất - tải khung ảnh đẹp Tổng hợp các khung ảnh đẹp nhất mà mình sưu tầm được xin chia sẽ cùng các bạn. Bộ sưu t...
-
Hôm nay góc thư giãn xin up phần tiếp theo của bộ truyện tranh 18+ Kim Chi và Củ Cải cho các bạn giải trí. Blog luôn cập nhật thường xuyên ...
-
Cùng ngắm album ảnh bikini nóng bỏng mắt của hot girl Nu Phạm Nu Phạm - một hot girl sở hữu vóc dáng đẹp với 3 vòng lý tưởng và một gương m...
-
Tuyển chọn những hình ảnh gái đẹp sexy khoe hàng nóng bỏng cho các bạn rửa mắt đây. Cùng ngắm các bộ sưu tập ảnh đẹp girl xinh khoe hàng , ả...
-
Bộ sưu tập ảnh nóng Ngọc Trinh khoe hàng cực sexy - Ảnh Ngọc Trinh trong trang phục bikini nóng bỏng. Cùng ngắm bộ ảnh cực nóng của Ngọc T...
-
hotgirl bán diêm Có một... hot girl nổi tiếng khắp vùng. Nàng có một sắc đẹp mà bất cứ người con trai nào nhìn thấy cũng... lảo đảo. Trong t...