Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2009

Tiền lệ

Tiền lệ

Chỉ thị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “giao UBND TP. Hà Nội chủ trì, cùng Bộ Khoa học và Công nghệ có hình thức xử lý thích hợp, đúng quy định của Đảng và Nhà nước đối với việc tự giải thể của Viện Nghiên cứu phát triển (IDS) và những phát biểu thiếu tinh thần xây dựng của một số cá nhân thuộc IDS” đã vượt ra khuôn khổ Quyết định 97 vì đã tạo ra một tiền lệ mà các bộ phận khác trong bộ máy hành chính có khả năng bắt chước làm theo.

Ở đây tôi không đề cập đến Quyết định 97, chuyện IDS tự giải thể để phản đối.

Chỉ xin lưu ý đến khả năng lan tràn hiện tượng yêu cầu “xử lý thích hợp” mỗi khi có “những phát biểu thiếu tinh thần xây dựng”.

Lấy ví dụ báo chí mà một trong những chức năng quan trọng là tạo diễn đàn cho người dân nói lên tiếng nói của họ. Đã là diễn đàn, tức sẽ có những tiếng nói phê bình các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, những trường hợp nhũng nhiễu của bộ máy hành chính, những câu chuyện bất công nơi này nơi khác. Với tiền lệ nói trên, rất dễ xảy ra chuyện người đứng đầu một địa phương, một ngành nào đó ra chỉ thị yêu cầu một cấp hành chính nào đó bên dưới “có hình thức xử lý” với những phát biểu mà họ cho là “thiếu tinh thần xây dựng” trên mặt báo. Trong quá khứ chuyện này đã xảy ra nhưng khá hiếm hoi và đa số các cấp lãnh đạo chọn con đường “im lặng là vàng” để lãnh tránh công luận. Nay, một khi họ thấy có thể xử dụng bộ máy hành chính để buộc các ý kiến “thiếu tinh thần xây dựng” phải im tiếng, khả năng họ sẽ sử dụng tiền lệ này, công cụ mới này là rất cao.

“Thiếu tinh thần xây dựng” làm một cảm nhận mang tính chủ quan vì không thể lượng định bằng các tiêu chí cụ thể. Phát biểu của học sinh với thầy hiệu trưởng về chuyện trường không có phòng vệ sinh đúng tiêu chuẩn, với người thầy chăm lo cho học sinh thì bình thường nhưng với một ông vừa nhận tiền “lại quả” từ nhà thầu xây dựng phòng học chắc chắn sẽ bị nhìn nhận như mũi dùi chỉa thẳng vào ông – thế là “thiếu tinh thần xây dựng”, phải giao cho giáo viên chủ nhiệm “xử lý”.

Tiền lệ này cũng có khả năng triệt tiêu mọi nỗ lực chống tham nhũng trong từng đơn vị, cơ quan nhà nước bởi nhãn “thiếu tinh thần xây dựng” sẽ được người đứng đầu chuẩn bị sẵn để dán cho bất kỳ ai phát biểu chống đối. Nó cũng làm nản lòng những phát biểu cải tiến quy trình làm việc, những sáng kiến tại các công sở…

Viết đến đây, tôi phải đọc lại thật kỹ những gì đã viết, xem nó có “thiếu tinh thần xây dựng” không! Thấy nó phản ánh đúng suy nghĩ của mình là góp ý xây dựng bộ máy hành chính của nước nhà, sao cho đừng để tạo ra một tiền lệ có thể bị hiểu nhầm từ một chỉ thị mà cấp dưới có thể lợi dụng. Như vậy, nó hoàn toàn mang tính xây dựng đấy chứ.

Hóa ra một tác dụng khác của chỉ thị này và những chủ trương tương tự là đẩy con người vào thế phải “nhìn trước trông sau” mỗi khi muốn nói lên tiếng nói của mình trước những vấn đề của xã hội – và chắc chắn dần dà mọi người sẽ chọn con đường im lặng cho khỏe thân – và đó là dấu chấm hết cho một xã hội bình thường, một đất nước bình thường.

Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2009

Không có lề phải, cũng chẳng có lề trái

Không có “lề phải”, cũng chẳng có “lề trái”

Từ dạo một quan chức buột miệng đẻ ra khái niệm báo chí “lề phải”, tự dưng nảy sinh ra khái niệm ngược lại để đối ứng là dư luận “lề trái”. Thật đáng tiếc bởi báo chí nói riêng, công luận nói chung không hề có “lề phải” hay “lề trái”. Báo chí đúng nghĩa phải ngay ngắn đường đường chính chính ở giữa mà đi, tức là tôn trọng sự thật, công bằng, khách quan, mỗi vấn đề đều phải lắng nghe và đưa ý kiến cả từ hai phía.

Cái tạm gọi là báo chí “lề phải” như cách hiểu của quan chức nói trên hiện đang bị nhiều ràng buộc, o ép, không còn được đề cập một cách thẳng thắn những vấn đề quan trọng của đất nước. Ở hướng ngược lại, khá nhiều dư luận “lề trái” thể hiện qua các diễn đàn trên mạng Internet cũng rơi vào chỗ cực đoan, quy chụp, cũng “độc quyền chân lý”, cũng bị tác động bởi tâm lý đám đông. Dĩ nhiên, nói khái quát một cách sơ lược như vậy là không chính xác vì có nhiều bài viết trên các diễn đàn rất hay, rất xác đáng, có tác dụng rất to lớn trong việc hướng dẫn dư luận. Đành phải nêu ví dụ để minh họa cho nhận xét này.

Sau khi bài viết “Việt Nam sẽ vào top 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới” xuất hiện, ngay lập tức nhiều ý kiến trên mạng Internet đã gán cho ông Nguyễn Xuân Kiên, Viện trưởng Viện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam và Đông Nam Á, những từ ngữ khá nặng nề. Ông này nói: “… chỉ 20 -30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. 40 năm nữa, Việt Nam sẽ đứng trong top 15 nền kinh tế lớn nhất thế giới” và đối lại, thiên hạ nói ông này “siêu tưởng”, “đại ngôn”, “lòe thiên hạ”…

Nếu bình tĩnh một chút, chắc nhiều người sẽ nhận ra đây không phải là “phát kiến” gì vĩ đại của ông Kiên cả. Nó là một trong những kết luận của một nghiên cứu cách đây mấy năm của Goldman Sachs (có thể tham khảo ở đây). Thậm chí, Goldman Sachs còn nói ghê hơn kia: GDP của Việt Nam vào năm 2025 dự báo đứng thứ 17 và năm 2050 đứng thứ 15 trên toàn thế giới. Tôi nhớ lúc đó báo chí Việt Nam cũng bàn tán nhiều về chuyện này ví dụ như ở đây.

Lỗi của ông Kiên là (1) nói mà không trích nguồn; (2) đưa ra một nhận định không ăn nhập gì đến nội dung được phỏng vấn; (3) không cập nhật thông tin về các phản bác nghiên cứu của Goldman Sachs.

Điều đáng lo là tôi tin chắc không ít người nhớ chuyện Goldman Sachs mà hầu như không ai lên tiếng và các diễn đàn thì cứ thế “phang đại” đủ kiểu nhận xét rất cực đoan. Tôi không bênh vực gì ông Kiên vì trong bài phỏng vấn ông này nói mà không phân biệt được giữa văn hóa kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp nhưng chuyện gì phải ra chuyện nấy.

Một ví dụ khác là vụ án ông Huỳnh Ngọc Sỹ. Với những gì ông này bị cáo buộc tại tòa (tức là cáo trạng công khai) và với bản án đã tuyên, phải nói ông ta bị án 3 năm tù là quá nặng. Chuyện các cơ quan nhà nước cho thuê trụ sở lấy tiền chia nhau trong nội bộ (dù quy định đã cấm) là khá phổ biến ở nhiều hình thức khác nhau, sao không xử tù hết thảy những cán bộ loại này đi.

Lẽ ra dư luận phải tập trung vào chuyện vì sao Nhà nước không đếm xỉa gì đến chứng cứ của nhân viên của PCI từng khai đã hối lộ cho ông Sỹ với những khoản tiền rất cụ thể; vì sao cáo trạng không một dòng nào nói chuyện này; còn nếu đây là một vụ án khác, thì bao giờ đem ra xử; có gọi nhân chứng từ Nhật sang không; việc dịch các tài liệu do Nhật cung cấp đến đâu rồi, nội dung có làm sáng tỏ được vấn đề gì không… Nếu không làm rõ những chuyện đó mà chỉ bàn tán bản án hiện tại của ông Sỹ là quá nhẹ, thì quá lắm là có kháng nghị của Viện Kiểm sát Nhân dân TPHCM tăng án với ông Sỹ là cùng – chẳng giải quyết được mấu chốt của vụ này.

Đây là một giai đoạn đáng buồn vì nạn phân biệt “lề phải”, “lề trái” mà lỗi xét cho cùng do các cán bộ quản lý nhà nước với tầm nhìn hạn hẹp đã đẩy nhiều người ra thành hai phía. Theo tôi, không nên dùng khái niệm “lề phải”, “lề trái” nữa vì như thế hóa ra chúng ta tiếp tay cho cái sai. Một ý kiến đúng đắn sẽ được mọi người chấp nhận chứ không phải vì nó nằm bên lề nào.

Thứ Năm, 1 tháng 10, 2009

Tìm biện pháp mới

Tìm biện pháp mới

Không chỉ riêng ở Việt Nam, hiện nay nhiều nước cũng đang cân nhắc hiệu quả của các biện pháp kích thích kinh tế trước khi tiếp tục sử dụng chúng trong năm tới. Mặc dù ý kiến của các nhà kinh tế còn khác nhau, những kết luận ban đầu của họ rất đáng tham khảo.

Hiệu quả còn tùy

Để đánh giá tác dụng của gói “kích cầu”, người ta thường dùng khái niệm “số nhân tài khóa” để tính xem những biện pháp cắt giảm thuế hay tăng chi tiêu chính phủ sẽ làm tăng tổng sản lượng bao nhiêu lần. Nếu số nhân này bằng 1, có nghĩa một đồng chi thêm sẽ làm tăng GDP thêm một đồng. Theo tờ Economist, số nhân tài khóa phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế khác nhau. Ví dụ, với nền kinh tế đang vận hành hết công suất, số nhân tài khóa sẽ bằng 0 vì lúc đó mức tăng cầu của chính phủ sẽ làm giảm chi tiêu ở khu vực khác. Còn ở thời điểm kinh tế suy giảm, tăng chi tiêu tài khóa có thể làm tăng cầu nói chung. Nếu vốn kích cầu khởi động một hiệu ứng chi tiêu khác, từ doanh nghiệp đến người tiêu dùng thì số nhân sẽ lớn hơn 1.

Cách “kích cầu” cũng sẽ tạo hiệu ứng khác nhau. Miễn giảm thuế có thể không hiệu quả bằng việc chính phủ bỏ tiền ra xây một cây cầu, chẳng hạn vì tiền thuế được miễn giảm có thể biến thành tiền để dành chứ không được đưa vào lưu thông. Miễn giảm thuế cho người thu nhập thấp hiệu quả hơn miễn giảm thuế cho người giàu vì người ít tiền sẽ phải chi tiêu ngay số tiền được nhà nước “thối lại” cho các nhu cầu trước mắt.

Quan trọng hơn, yếu tố tâm lý và kỳ vọng của người dân đóng vai trò then chốt trong việc “kích cầu” sao cho có hiệu quả cao nhất. Chính phủ chi tiêu cho “kích cầu” ắt lãi suất phải tăng, nếu đúng thế thì đầu tư từ khu vực tư nhân sẽ giảm; còn nếu người ta tin vào tác động tích cực của các gói kích thích kinh tế, tiêu dùng và đầu tư sẽ tăng để đưa nền kinh tế vượt qua suy thoái.

Cũng theo tờ Economist, quan sát số liệu thống kê cho thấy “kích cầu” tỏ ra hiệu quả ở những nước có nền kinh tế đóng nhiều hơn những nước có nền kinh tế mở vì tiền kích cầu ít rơi vãi ra bên ngoài thông qua hàng nhập khẩu. Đóng và mở ở đây được đo lường bằng quy mô xuất nhập khẩu của nền kinh tế đó so với GDP. “Kích cầu” cũng tạo ra hiệu ứng lớn hơn ở những nước có quy mô kinh tế lớn vì ở nước nhỏ, nhà đầu tư dễ bỏ cuộc hơn và vì thế lãi suất dễ tăng nhanh hơn.

Còn theo GS Willem Buiter viết trên tờ Financial Times, để các biện pháp kích thích kinh tế thông qua chính sách tài khóa có hiệu quả, cần đáp ứng một số điều kiện. Thứ nhất, nền kinh tế phải đang dư thừa công suất, tức công nhân đang thiếu việc làm, nhà máy tạm ngưng hoạt động. Thứ hai, đã sử dụng hết các biện pháp kích cầu khác, thông qua chính sách tiền tệ, như đã hạ lãi suất đến hết mức. Thứ ba, chính sách tài khóa không được làm tăng lãi suất. Thứ tư, các biện pháp áp dụng không chèn ép các khu vực khác, tức chi tiêu của nhà nước không thế chỗ cho chi tiêu của người dân hay doanh nghiệp.

Với Việt Nam thì sao?

Cho đến nay vẫn chưa có những đánh giá chính thức mang tính định lượng hiệu quả của các biện pháp kích cầu mà Việt Nam đã áp dụng từ đầu năm đến nay ngoài số dư các khoản vay có hỗ trợ lãi suất (theo Ngân hàng Nhà nước, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến ngày 24-9-2009 là 404.256,10 tỷ đồng). Thật ra đây là điều khó bởi không ai có thể tính toán được mức tăng trưởng GDP hiện nay có bao nhiêu phần trăm là nhờ “kích cầu”; hay nói cách khác, nếu không có các gói kích cầu, liệu GDP có tăng trưởng như bây giờ và thất nghiệp liệu có giữ như mức hiện nay.

Tuy nhiên, đối chiếu những kết luận ban đầu nói trên với tình hình kinh tế Việt Nam, có thể thấy các điều kiện để tiếp tục “kích cầu” chưa thật sự chín muồi. Lãi suất hiện đang có xu hướng tăng bởi nỗi lo lạm phát quay trở lại vẫn còn đó. Chỉ số tiêu dùng tháng 9-2009 so với đầu năm lên đến 4,11% và chỉ số này của cả chín tháng đầu năm nay so với chín tháng đầu năm ngoái đã là 7,64%. Hơn nữa, lãi suất trái phiếu chính phủ cũng sẽ phải tăng nếu muốn các đợt phát hành sắp tới thành công và như thế sẽ đẩy mặt bằng lãi suất lên một mức mới. Việt Nam là một nền kinh tế mở vì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hiện ở mức tương đương 173% GDP, nếu kích cầu mà xuất khẩu vẫn tiếp tục suy giảm, lượng hàng tồn kho ắt sẽ tiếp tục tăng hơn mức hiện nay trong khi hàng nhập khẩu sẽ làm cho tiền kích cầu rò rỉ ra bên ngoài.

Cái khó là không thể triển khai các biện pháp tiền tệ vì nới lỏng tín dụng hay giảm lãi suất cơ bản sẽ càng làm cho lạm phát nhanh chóng bùng phát trở lại.

Vì thế, thay cho một gói kích cầu thứ hai ở dạng hỗ trợ lãi suất, dù ở mức 4% hay chỉ là 2% mà hiệu quả chưa rõ ràng, nên thay bằng một số biện pháp khác. Đầu tiên là mạnh dạn cắt giảm thuế VAT cho nhiều mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày. Đây là cách kích cầu trực tiếp nhất, lại có lợi cho người tiêu dùng có thu nhập thấp. Việc cắt giảm thuế VAT phải hạn định vào một khoảng thời gian ngắn, cụ thể để người dân buộc lòng phải chi tiêu để hưởng lợi từ chính sách và doanh nghiệp bán được hàng tồn kho. Nếu không hạn định thời gian, người tiêu dùng có thể sẽ trì hoãn việc chi tiêu vào lúc khác. Tương tự với doanh nghiệp, nên miễn giảm thuế cho những khoản đầu tư hiện tại để kích thích đầu tư tư nhân.

Trong các gói kích cầu đã công bố có những khoản dành cho đầu tư hạ tầng nhưng mức độ triển khai không đạt kế hoạch. Tập trung vào các khoản chi tiêu vào các công trình hạ tầng vừa có tác dụng kích thích kinh tế, tạo công ăn việc làm, vừa giúp tháo gỡ những nút thắt cổ chai như tắt nghẽn giao thông, thiếu cầu. Một gợi ý của GS Willem Buiter có thể áp dụng cho Việt Nam: đó là phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất gắn với mức tăng trưởng GDP cộng thêm một số điểm phần trăm nào đó.

Thứ Tư, 23 tháng 9, 2009

Nên sửa lại chức năng

Nên sửa lại chức năng của

website đảng Cộng sản

Trong tiếng Việt, từ “cơ quan” ngoài những nghĩa thông thường như chúng ta đều biết còn có một nghĩa nữa là “tờ báo chính thức” của một tổ chức nào đó. Ví dụ khi khi đọc thấy “Sài Gòn Giải Phóng – cơ quan của đảng bộ đảng Cộng sản Việt Nam TP Hồ Chí Minh”, người ta hiểu ngay từ “cơ quan” trong cụm từ trên có nghĩa là “cơ quan ngôn luận chính thức” hay “tiếng nói chính thức”. Tương tự, chúng ta có “Báo Lao Động - Cơ quan của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam”, “Báo Tiền Phong, Cơ quan Trung ương của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh”....

Nay website của đảng Cộng sản Việt Nam với tên chính thức: “Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam – Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” hóa ra tự nhận mình là tờ báo chính thức của đảng là không ổn. Bởi báo Nhân dân cũng ghi “Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam”; nếu website đảng Cộng sản không sửa lại thì đảng Cộng sản Việt Nam hóa ra có hai cơ quan ngôn luận chính thức.

Trong phần giới thiệu chức năng của mình, website đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ: “Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ quan thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương, là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân trên mạng điện tử internet, đồng thời là kho thông tin điện tử của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam”. Vì thế, ở ngoài nên sửa lại cho danh chính ngôn thuận là “cơ quan của Ban Tuyên giáo Trung ương”.

Thứ nữa, website này nên tự hạn chế mình vào chức năng “là kho thông tin điện tử” với một tên gọi đại khái như “văn khố điện tử chính thức” thì hợp tình hợp lý hơn nhiều. Làm như thế, website này không phải lo chuyện thông tin thời sự cho vất vả lại dễ gây ra sai sót mà lại trùng lắp với chức năng của báo Nhân Dân, kể cả báo Nhân Dân online.

Ví dụ, cùng một tin mà hai nơi đưa tin khác nhau. Báo Nhân Dân online đưa “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Bộ trưởng Công thương và Du lịch Ðông Ti-mo”; còn website đảng Cộng Sản đưa “Việt Nam sẵn sàng hợp tác với Timor-Leste”. Năm 2002, Đông Timor chính thức trở thành một quốc gia độc lập với tên nước là Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste. Nước này yêu cầu sử dụng tên Timor-Leste và theo nguyên tắc ngoại giao, gọi Timor-Leste thì chính xác hơn. (Đáng tiếc là về chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Hungary cả hai nơi đều đưa một chi tiết sai khi viết Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Chủ tịch Quốc hội Hungary là Szili Katalin trong khi bà đã từ chức trước đó mấy ngày và người tiếp là Chủ tịch mới – ông Bela Katona).

Cập nhật: Đến chiều hôm nay (24-9), kiểm tra lại thì thấy báo Nhân dân online đã sửa lại đúng tên Chủ tịch Quốc hội mới của Hungary còn website của đảng Cộng sản Việt Nam thì vẫn chưa sửa.

Thứ Hai, 14 tháng 9, 2009

IDS tự giải thể

IDS tự giải thể

Một ngày trước khi Quyết định 97 có hiệu lực, Viện Nghiên cứu Phát triển IDS tuyên bố tự giải thể hôm nay (14-9-2009).

Sau khi phân tích những điều mà IDS cho là “sai phạm nghiêm trọng” của Quyết định 97, trong đó có quy định cá nhân thành lập tổ chức khoa học công nghệ “chỉ hoạt động trong lĩnh vưc thuộc Danh mục ban hành kèm theo Quyết định này. Nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cần gửi ý kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học và công nghệ”, tuyên bố của IDS cho rằng IDS “không thể tiếp tục hoạt động theo sứ mệnh đã xác định trong mục tiêu ghi vào Điều lệ của mình” cũng như “không thể làm tròn trách nhiệm công dân và nghĩa vụ người trí thức của mình”.

Việc tuyên bố tự giải thể, theo IDS, là “để biểu thị thái độ dứt khoát của Viện đối với Quyết định 97”.

Các thành viên Hội đồng IDS đồng ký tên vào tuyên bố này cũng hứa hẹn “giữ quyền sử dụng tiếp các công cụ pháp lý để bảo vệ sự trong sáng của luật pháp”. Tuyên bố không nói rõ đó là biện pháp gì nhưng thông thường khi nói đến việc "sử dụng các công cụ pháp lý" là nói đến khả năng kiện ra tòa án và "bảo vệ sự trong sáng của luật pháp" tức là nhắm đến mục đích tòa phải tuyên hủy Quyết định 97 nói trên.

Thứ Ba, 8 tháng 9, 2009

Lời nguyền của Forbes

Lời nguyền của Forbes

Tờ Economistmột bài báo thú vị về chuyện nhiều tỷ phú Trung Quốc sau khi được đưa vào danh sách những người giàu nhất Trung Quốc do tạp chí Forbes bình chọn thường rơi vào số phận nghiệt ngã.

Một nghiên cứu điểm lại cuộc đời của khoảng 1.300 nhân vật lọt vào danh sách này trong vòng 10 năm qua cho biết: Hai người đang chờ ra tòa, 10 người đang bị điều tra, bảy người đã bị điều tra nhưng thoát tội, bảy người bỏ trốn khỏi Trung Quốc, sáu người đã chết (gồm cả hai vụ tự tử, một vụ giết người), 18 người vào nằm nhà giam. Có cả một cuốn sách viết về chuyện này mang nhan đề “Lời nguyền của Forbes”!

Thật ra, tỷ lệ như vậy là không cao nhưng nhiều người cho rằng sự giàu có của một số cá nhân ở Trung Quốc thường gắn với tội phạm hay tham nhũng.

Tốt nhất đừng cho Forbes lập một danh sách tương tự cho những người giàu nhất Việt Nam!!!

Thứ Hai, 7 tháng 9, 2009

Nghiệp vụ kém???

Nghiệp vụ kém hay vô cảm trầm trọng?

Người ta thường rao giảng về bản lĩnh chính trị của nhà báo, về sự nhạy cảm chính trị của cơ quan báo chí. Nhưng thử đối chiếu những lời rao giảng ấy với bản tin sau, đăng trên website của Đảng Cộng sản Việt Nam thì người đọc phải lý giải sao đây? Phải chăng những người làm tin này quá yếu kém về nghiệp vụ (xử lý tin dịch trên báo nước ngoài) hay không hiểu gì hết về tình hình chính trị hiện nay?

Càng suy nghĩ càng thấy bực; bực giùm cho các tờ báo từng bị phạt vì có đăng quảng cáo mà người quảng cáo có sử dụng bản đồ Việt Nam nhưng quên vẽ thêm hai cụm đảo Hoàng Sa va Trường Sa cho dù bản đồ chỉ nhỏ xi1u bằng hai ngón tay hay chỉ là lô gô cách điệu của doanh nghiệp. Hãy thử đợi đến bao giờ tin này mới được gỡ bỏ.

Cập nhật: Tin này cuối cùng cũng đã được gỡ xuống.

Nhân đây cũng xin bàn sơ qua về việc đính chính trên các báo điện tử. Cách làm hiện đang được nhiều ấn bản điện tử có uy tín trên thế giới áp dụng là mỗi khi phải đính chính một chi tiết nào đó trong bản tin đã đăng, họ sẽ cập nhật ngay phần đính chính ở đầu hay cuối tin (kèm theo giải thích) và vẫn giữ nguyên bản tin gốc ở dưới. Một cách khác (nhất là đối với các đính chính nhỏ) là gạch ngang từ muốn xóa và chêm từ mới vào. Ít thấy ai lột bài, xóa bài như các báo điện tử ở Việt Nam.

--------------------------------------------------
Hải quân Trung Quốc diễn tập tại biển Đông

(ĐCSVN) - Ngày 16.8.2009, đội tàu hộ tống của Trung Quốc sau khi thực hiện nhiệm vụ hộ tống hàng hải đã đi vào khu vực biển Đông và tiến hành diễn tập với khoa mục tiếp tế theo đội hình hàng ngang. Theo tinh thần hoạt động ''đi một bước, luyện tập một bước, nghiên cứu một bước''. Đội tàu hộ tống trên đường quay trở về căn cứ đã tiến hành các cuộc diễn tập và nghiên cứu đấu pháp quân sự, tập trung thử nghiệm và nâng cao khả năng chỉ huy tác chiến, khoảng cách bảo đảm, phòng vệ cơ động.

Ngày 18.8.2009, đội tàu hộ tống gồm hơn 100 sĩ quan và binh lính đã cập bến bãi đá Vĩnh Thử (đảo Chữ Thập) thuộc quần đảo Trường Sa để tiến hành tiếp tế, hậu cần, thăm quan cơ sở công tác và sinh hoạt của binh lính trên đảo, đồng thời đưa 2 tàu chở trực thăng là ''Thâm Quyến'' và ''Hoàng Sơn'' cập đảo, tiến hành diễn tập cho trực thăng lên xuống và lực lượng đặc nhiệm đổ bộ đường không.

Phát biểu với binh lính trên đảo, chỉ huy đội tàu hộ tống Phó Tư lệnh Hạm đội Nam Hải nhấn mạnh: ''Bất kể là binh sĩ hộ tống hàng hay binh sĩ bảo vệ đảo, đều có chung một sứ mệnh đó là bảo vệ lợi ích quốc gia, hy vọng các binh sĩ tập luyện để bảo vệ tốt biên cương trên biển phía nam Tổ quốc”. Đến 9 giờ 30' ngày 18.8.2009, đội tàu đã rời đảo, tiếp tục hành trình quay trở về căn cứ.

Ngày 24.8.2009, lực lượng Hải quân Trung Quốc bắt đầu giai đoạn huấn luyện nhảy dù kéo dài 2 tháng, các hoạt động huấn luyện này được bắt đầu từ một sân bay ở quần đảo Hoàng Sa. Đây được coi là một hoạt động tập dượt kịch bản đổ bộ bằng đường không của Hải quân Trung Quốc. Một trong những nội dung mới đáng lưu ý trong các hoạt động huấn luyện quân sự năm 2009 là hoạt động huấn luyện nhảy dù từ máy bay trực thăng và từ một sân bay ở quần đảo Hoàng Sa.

Bài đăng phổ biến