Thứ Sáu, 5 tháng 11, 2010

Mỹ in tiền – nhưng in như thế nào?

Mỹ in tiền – nhưng in như thế nào?

Trong tuần này, báo chí đồng loạt đưa tin về chuyện ngân hàng trung ương Mỹ (Fed) quyết định tung ra thêm 600 tỷ đô-la để kích thích kinh tế. Nhiều tờ báo của Mỹ dùng từ “in tiền” để chỉ chuyện này. Nhiều bài báo, khi giải thích khái niệm “nới lỏng định lượng” hay “nới lỏng số lượng” (Quantitative Easing), cũng giải thích đó là quy trình Fed “in tiền” để mua trái phiếu Chính phủ.

Dùng từ “in tiền” như thế nhiều người sẽ hiểu nhầm là động tác in thật sự, cho máy in chạy rầm rập, in ra những tờ 50, 100 đô-la để xài thoải mái. Thực tế không phải vậy, từ “in tiền” ở đây được dùng theo nghĩa bóng.

Thông thường khi nói đến tiền, chúng ta chỉ nghĩ đến các tờ giấy bạc, xanh xanh, đỏ đỏ - tức là tiền mặt. Lượng tiền mặt này thật ra rất ít so với hình dung của chúng ta. Ví dụ, theo thông tin trên trang web của Federal Reserve Bank of New York, tổng lượng tiền mặt là đô-la Mỹ (tiền giấy, tiền xu) đang lưu hành khắp nơi chỉ vào khoảng 829 tỷ đô-la, đa phần đang lưu hành bên ngoài nước Mỹ (số liệu năm 2008). Ở Mỹ, tiền mặt do Bộ Tài chính in ở những nhà máy in tiền của bộ này; việc phân phối tiền vào lưu thông giao cho Fed.

Trong thực tế, tiền còn là các khoản tiền gởi trong ngân hàng, có kỳ hạn, không có kỳ hạn… Để khỏi đi sâu vào chi tiết phức tạp, có thể hiểu cách Fed tung 600 tỷ đô-la vào nền kinh tế như thế này. Theo một lịch trình định trước, Fed tuyên bố mua vào trái phiếu chính phủ. Các ngân hàng lớn, có trái phiếu này, sẽ tranh nhau đấu thầu để bán cho Fed. Fed không đem tiền mặt trả cho các ngân hàng này mà chỉ ghi trong bảng cân đối của Fed là ngân hàng này, ngân hàng kia có thêm chừng đó tiền trong tài khoản. Vậy thôi.

* * *

Đến đây sẽ có người thắc mắc, làm vậy để làm gì, đâu có đưa tiền thật vào nền kinh tế thật đâu mà kích thích sản xuất?

Chính xác. Logic thông thường cho thấy, nếu người ta đang giữ trái phiếu, nay thấy được giá, có lời thì bán, nhưng chắc gì bán xong họ đem tiền ra tiêu đâu. Không có gì bảo đảm họ không lấy tiền đó mua tiếp trái phiếu hay các công cụ tài chính khác.

Chính sách “nới lỏng” của Fed, vì vậy, có mục đích chính yếu là nâng giá trái phiếu chính phủ lên, để từ đó giảm lợi suất của trái phiếu. Lợi suất trái phiếu giảm được kỳ vọng sẽ kéo lãi suất chung giảm xuống.

Trước đây khi lãi suất còn cao, Fed cứ tuyên bố giảm lãi suất cho khỏe, không cần dùng biện pháp “nới lỏng” này. Nay lãi suất đã giảm về gần đến 0% nên Fed hết cách, phải áp dụng cách này.

Một hệ lụy là các ngân hàng hay các nhà đầu tư tự nhiên có thêm tiền trong tài khoản, ắt sẽ đi lùng khắp thế giới để mua tài sản, kiểu như trái phiếu chính phủ hay cổ phiếu hay vàng, nhằm hưởng lợi. Đó chính là nỗi lo dòng tiền nóng sẽ chảy vào các nước châu Á. Đó là ý nghĩa đằng sau những bản tin tài chính chúng ta đọc trong tuần này.

(Có tham khảo blog của Felix Salmon, nhà báo Reuters)

Thứ Năm, 4 tháng 11, 2010

Những hiểu nhầm thường gặp

Những hiểu nhầm thường gặp

Thế nào là phá sản?

Chỉ một khái niệm đơn giản như thế, sao các chuyên gia kinh tế cứ nói khi thế này, khi thế khác?

Theo Luật Phá sản của Việt Nam, “doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”.

Ai có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố doanh nghiệp phá sản? Đó là chủ nợ, người lao động, chủ doanh nghiệp, đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông công ty cổ phần, thành viên công ty hợp danh.

Lấy một ví dụ được đơn giản hóa, một doanh nghiệp A, có vốn 50 đồng, vay thêm ngân hàng 50 đồng để mua một chiếc xe ba gác về chở hàng thuê. Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp này (thì cứ gọi như vậy cho trang trọng) sẽ như sau:

Tài sản

Nợ + Vốn

Xe ba gác: 100 đồng

Nợ ngân hàng: 50 đồng

Vốn: 50 đồng

Cộng: 100 đồng

Cộng: 100 đồng

Hai cột này luôn luôn bằng nhau, chứ không phải như một vị chuyên gia nói: “Tổng tài sản hiện đang có lớn hơn tài sản nợ, cộng với vốn chủ sở hữu thì nó vẫn còn số dư”!

Nay không được sử dụng xe ba gác để chở hàng nữa, xe bán lại, người ta chỉ mua với giá 30 đồng thì ngay lập tức ngân hàng có quyền yêu cầu tòa án mở thủ tục tuyên bố doanh nghiệp này phá sản.

Vì vậy với Vinashin, để biết tập đoàn này đã lâm vào tình trạng phá sản chưa, chỉ cần hỏi hai câu: 1/ Trong thời gian tới, chẳng hạn, 6 tháng tới, nợ tới hạn phải trả là bao nhiêu? 2/ Dòng tiền của Vinashin trong thời gian đó có đủ để trả số nợ này không?

GDP và lạm phát

“GDP tăng trên 6,5% nhưng lạm phát cũng tăng khoảng 8%, hoặc hơn thế nữa thì cuộc sống của xã hội không khá hơn bao nhiêu”.

Câu nói này có thể dẫn đến cách hiểu nhầm nhưng cũng có thể nói đúng thực chất tăng trưởng ở Việt Nam.

Tăng trưởng GDP là tính theo giá so sánh, tức là đã khử yếu tố lạm phát đi rồi.

GDP hằng năm được Tổng cục Thống kê công bố theo hai con số, giá thực tếgiá so sánh (với giá năm 1994). Ví dụ GDP năm 2008 so với GDP năm 2007 theo giá thực tế tăng đến 29,6% nhưng theo giá thực tế chỉ tăng 6,3%. Cái chúng ta thường nghe về tăng trưởng GDP là theo giá so sánh nên để cạnh lạm phát e rằng có người hiểu nhầm lạm phát mà cao hơn tăng trưởng GDP tức tăng trưởng âm!!!

Nhưng GDP đầu người lại tính theo giá thực tế, cho nên mới nghe mỗi người chúng ta nay đã có thu nhập trên 1.000/năm. Và vì thế đối với đại đa số người làm công ăn lương, thu nhập đâu có tăng theo lạm phát nên cho dù các ông thống kê nói thu nhập đầu người tăng, lạm phát thật sự đang ăn vào thu nhập của mỗi người.

Nói thêm về dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất

So với báo cáo cũ, báo cáo của Chính phủ về dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất do Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng đọc trước Quốc hội vào hôm qua đã có một số thay đổi. Không còn thấy nhắc gì đến khoản tổng thu ngân sách của dự án lên đến 27,8 tỷ đô-la nữa. Cũng không còn khoản giá trị quyết toán chỉ là 43,8 ngàn tỷ đồng, giảm đến 8 ngàn tỷ đồng (tương đương giảm gần 500 triệu đô-la) mà chỉ ghi chung chung “Hiện nay với giá trị quyết toán vốn đầu tư dự kiến thấp hơn tổng mức đầu tư được duyệt, dự án có thể sẽ hiệu quả hơn nữa”.

Với người lạc quan, có thể nhận định báo cáo Chính phủ đã tiếp thu những góp ý trước đó khi báo cáo được đưa ra thảo luận vào ngày 18-10. Nhưng thực chất vấn đề không mất đi, chỉ là sự trì hoãn, vì báo cáo hứa phần này chủ đầu tư sẽ có báo cáo cụ thể sau khi hoàn thành việc quyết toán công trình, dự kiến vào tháng 12 tới. Thôi đành chờ vậy.

Thí điểm nay đã 5 năm

Thí điểm nay đã 5 năm

Chủ trương thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước ra đời từ năm 2005 đến nay đã năm năm trôi qua nhưng vẫn chưa có một tổng kết chính thức nào về mô hình này.

Chưa sơ kết lấy đâu ra tổng kết

Còn nhớ đầu năm nay, Chính phủ đề ra một chương trình hành động rất cụ thể, với những cột mốc rõ ràng: Sơ kết mô hình tập đoàn kinh tế trong tháng 9-2010, nơi chủ trì là Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, nơi phối hợp là Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Tài chính. Một đầu việc khác, được giao cho Bộ Kế hoạch & Đầu tư chủ trì là “Rà soát, phân tích, đánh giá một cách toàn diện về hiệu quả của mô hình tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước”, cũng phải làm xong trong tháng 9-2010. Cụ thể hơn, Bộ Tài chính được giao nhiệm vụ “Đánh giá lại giá trị vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước”, hoàn tất trong quý 2-2010.

Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa thấy kết quả gì từ những phần việc mà Chính phủ đã giao cho các bộ, ngành. Giả thử các cơ quan này làm xong phần việc được giao thì cũng đã quá muộn so với thời gian năm năm các tập đoàn hoạt động theo dạng thí điểm. Trước đó, cũng đã có nhiều yêu cầu sơ kết, đánh giá mô hình tập đoàn kinh tế nhưng cũng không có một kết luận nào cụ thể.

Trong thực tế, cho đến nay đã có 12 tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập (xem bảng). Trong suốt thời gian đó, các tập đoàn hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước bởi mãi đến cuối năm 2009, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 101/2009/NĐ-CP về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế. Đến nay khi Luật Doanh nghiệp nhà nước đã hết hiệu lực, mọi doanh nghiệp phải hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì cơ sở pháp lý của việc thành lập các tập đoàn càng mơ hồ hơn nữa.

Điều khiến nhiều người thắc mắc nhất là chuyện tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân. Nghị định 102 vừa mới ban hành và Nghị định 139 năm 2007 đều quy định như nhau, gần với thông lệ quốc tế, cụ thể:

1. Tập đoàn kinh tế bao gồm nhóm các công ty có tư cách pháp nhân độc lập, được hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua lại, tổ chức lại hoặc các hình thức liên kết khác; gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác tạo thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp doanh nghiệp trở lên dưới hình thức công ty mẹ - công ty con.

2. Tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Việc tổ chức hoạt động của tập đoàn do các công ty lập thành tập đoàn tự thỏa thuận quyết định.

Vì sao không có tư cách pháp nhân?

Trước khi phân tích các tập đoàn kinh tế ở nước ta, hãy xem thông lệ quốc tế về tổ chức và hoạt động của các tập đoàn như thế nào. Lấy ví dụ Google rõ ràng là một tập đoàn lớn trong ngành công nghệ thông tin. Nay Google mua lại một hãng XYZ nào đó (như khi mua YouTube), tất nhiên về mặt danh nghĩa XYZ nay thuộc tập đoàn Google nhưng về mặt pháp lý, XYZ vẫn là một pháp nhân độc lập, chỉ có chủ sở hữu là Google mà thôi, nó không liên quan gì đến Google về mặt luật pháp cả. Chỉ khi Google làm báo cáo tài chính tổng hợp thì mới tích hợp kết quả kinh doanh của XYZ vào.

Hay lấy một công ty khác. Sony Vietnam là một pháp nhân độc lập, nó liên quan đến tập đoàn Sony ở góc độ vốn hay công nghệ hay nhân sự… tức toàn chuyện nội bộ. Tập đoàn Sony (Sony Corporation) là công ty mẹ, chuyên về điện tử và đóng vai trò đầu tư vào các công ty Sony khác như Sony Music hay Sony Ericsson. Tất cả làm nên Sony Group (không có tư cách pháp nhân vì không do ai đứng ra thành lập cả).

Ở Việt Nam cũng vậy. Lấy ví dụ Tập đoàn Dệt May Việt Nam, theo giới thiệu của trang web của Chính phủ, gồm 10 đơn vị hạch toán phụ thuộc và 69 công ty con, công ty liên kết. Các công ty con của tập đoàn này như công ty Dệt Nam Định, Công ty Dệt Việt Thắng mặc dù do Tập đoàn Dệt May nắm giữ 100% vốn điều lệ vẫn là các công ty TNHH một thành viên, tức là những pháp nhân độc lập, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi mặt cho hoạt động của mình.

Hay Công ty Len Việt Nam, cũng được xem là thành viên của Tập đoàn Dệt May nhưng thuộc loại doanh nghiệp mà tập đoàn này nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, còn Công ty cổ phần May Thời trang thuộc loại doanh nghiệp mà tập đoàn chỉ nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ. Thậm chí các đơn vị sự nghiệp như Viện Mẫu thời trang cũng là thành viên của tập đoàn.

Việc tập hợp các doanh nghiệp khác nhau như thế vào một nhóm các công ty (tức là tập đoàn) chỉ là việc họ tự thỏa thuận với nhau chứ làm sao hình thành từ một quyết định hành chính được.

Đang có sự nhầm lẫn rất lớn

Ở đây cần phân biệt Tập đoàn Dệt May Việt Nam (không có tư cách pháp nhân) với công ty mẹ - cũng mang tên Tập đoàn Dệt May Việt Nam (có tư cách pháp nhân, được thành lập trên cơ sở Tổng công ty Dệt May Việt Nam). Lẫn lộn giữa hai thực thể này đã và sẽ là đầu mối cho muôn vàn trục trặc trong thực tế.

Tập đoàn Dệt May Việt Nam (không có tư cách pháp nhân) không ký kết hợp đồng được với ai cả (không có tư cách pháp nhân, không có con dấu làm sao ký); không được đứng ra vay nợ cho ai; nói tóm lại là không làm được gì trong thực tế cả. Không thể nào ra quyết định thành lập một thực thể như thế được.

Rõ ràng sự nhầm lẫn giữa công ty mẹ và cái gọi là tập đoàn bao trùm vì cả hai được đặt tên giống nhau đang gây khó khăn cho việc tổng kết mô hình tập đoàn. Đã không có tư cách pháp nhân thì liệu có có hội đồng thành viên hay hội đồng quản trị được không? Cũng tương tự, làm gì có chức danh chủ tịch hay tổng giám đốc một thực thể không có tư cách pháp nhân. Và lấy ví dụ Vinashin, không có tư cách pháp nhân thì làm gì có chuyện phá sản. Tất cả những điều này là do không phân biệt rạch ròi giữa Vinashin là công ty mẹ và Vinashin (là tập hợp trên 400 công ty lớn nhỏ). Hay lấy ví dụ hàng chục công ty mà Vinashin từng “góp vốn bằng thương hiệu”. Nếu tính cho cả tập đoàn, xem ra phải cộng tài sản của các công ty này vào nhưng đối với công ty mẹ Vinashin, chúng không làm tăng một chút tài sản nào cả.

Như vậy, giải pháp rõ ràng nhất là quay về với cách làm theo thông lệ quốc tế. Trước mắt phải yêu cầu các công ty mẹ trong các tập đoàn không được sử dụng từ tập đoàn trong tên gọi của mình để tránh nhầm lẫn. Gọi tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam thì phải hiểu đó là tập hợp nhiều công ty; còn công ty mẹ gọi bằng một tên khác như Tổng công ty Bưu chính Viễn Thông hay một danh xưng nào đó. Đọc lại các quyết định thành lập các tập đoàn, chúng ta sẽ thấy nếu không xác định rõ chuyện này, các nội dung quyết định sẽ bị vô hiệu hóa. Chẳng hạn, hội đồng quản trị được thành lập phải là hội đồng quản trị của công ty mẹ chứ không phải là hội đồng quản trị của tập đoàn.

Lúc đó, các tập đoàn là tập hợp các doanh nghiệp trên cơ sở tự thỏa thuận với nhau chứ không thể hình thành từ một quyết định hành chính. Công ty mẹ sẽ có quan hệ với các công ty con, công ty liên kết bằng vốn, bằng con người… Có như vậy mới hy vọng các bộ, ngành sẽ tổng kết được mô hình tập đoàn của Việt Nam.

------

Bảng

Các tập đoàn kinh tế nhà nước

  1. Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam
  2. Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam
  3. Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam
  4. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản
  5. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
  6. Tập đoàn Dệt- May Việt Nam
  7. Tập đoàn Điện lực Việt Nam
  8. Tập đoàn Bảo Việt
  9. Tập đoàn Viễn thông quân đội
  10. Tập đoàn Hóa chất Việt Nam
  11. Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam
  12. Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam

Thứ Ba, 2 tháng 11, 2010

Sòng phẳng

Sòng phẳng

Khi đại biểu Nguyễn Minh Thuyết nêu con số nợ của Vinashin là không dưới 100.000 tỷ đồng hay khi đại biểu Lê Quang Bình đặt nghi vấn nợ của Vinashin có thể lên đến 120.000 tỷ đồng, họ có cái lý của họ bởi họ đang nói đến thực thể Vinashin lâm vào khủng hoảng, phát lộ vào khoảng đầu tháng 7 năm nay.

Nhưng khi Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh đăng đàn để nói về Vinashin thì ông không thể dùng những con số này được nữa vì nó không chính xác. Theo báo VnExpress, ông Ninh nói: “Căn cứ vào số liệu báo cáo của Hội đồng quản trị Tập đoàn, tổng tài sản hiện có trên sổ sách của Vinashin là 103.774 tỷ” và khẳng định: “Như vậy là toàn bộ số tiền vay của Vinashin vẫn nằm trong các dự án”.

Cách nói này không chính xác vì những điểm sau:

Lúc có quyết định tái cơ cấu Vinashin, hàng loạt công ty con của Vinashin được điều chuyển sang cho Vinalines và PVN.

(Báo Tuổi Trẻ đưa tin: Tách nhỏ Vinashin

Vinashin sẽ điều chuyển về PVN nguyên trạng các doanh nghiệp, dự án: Khu công nghiệp tàu thủy Nghi Sơn (Thanh Hóa), Nhà máy đóng tàu đặc chủng và sản xuất trang thiết bị tàu thủy Nhơn Trạch (Đồng Nai), phần vốn góp của Tập đoàn Vinashin trong Công ty CP công nghiệp tàu thủy Hoàng Anh (Nam Định), Nhà máy đóng tàu Dung Quất, Khu công nghiệp tàu thủy Soài Rạp (Tiền Giang), Khu công nghiệp tàu thủy Lai Vu (Hải Dương), gồm cả Công ty công nghiệp tàu thủy Lai Vu.

Vinashin cũng phải điều chuyển về Vinalines Khu công nghiệp và nhà máy đóng tàu Hậu Giang, cảng và nhà máy đóng tàu Năm Căn (Cà Mau), Công ty vận tải Biển Đông, Khu công nghiệp cảng biển Hải Hà (Quảng Ninh), cảng Vinashin Đình Vũ (Hải Phòng), Công ty TNHH một thành viên vận tải Viễn Dương Vinashin, phần vốn góp của Tập đoàn Vinashin trong các doanh nghiệp vận tải biển khác.

Thời gian bàn giao từ ngày 1-7 đến hết quý 3-2010).

Như vậy, cả tài sản và nợ của Vinashin đã giảm đáng kể chứ không thể dùng các con số cũ nữa. Thời điểm này cũng là đã hết quý 3, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cũng vừa mới khoe cuối tháng 10 hay đầu tháng 11 sẽ có một Vinashin mới, sao Bộ trưởng Tài chính không cập nhật số liệu và thực trạng Vinashin cho đến giờ này cho các đại biểu? Hay không lẽ các quan chức cho đến giờ này cũng không nắm được tình hình sau “tái cơ cấu”?

Dĩ nhiên việc giảm nợ này không thực chất vì nó chỉ chuyển khó khăn từ một doanh nghiệp nhà nước này sang doanh nghiệp nhà nước khác, chưa kể đến chuyện PVN phải trả cho Vinashin một khoản tiền đáng kể để ôm mớ tài sản và nợ kia.

Thứ hai, chuyện tiền vay nằm trong tài sản là chuyện sơ đẳng trong kế toán, vấn đề không phải ở chỗ đó. Vấn đề là liệu tài sản của Vinashin có tạo ra được dòng tiền để trả nợ không, bởi một doanh nghiệp không trả được các khoản nợ đến hạn xem như đã phá sản. Và tài sản đó nếu không sử dụng hiệu quả lại là tác nhân tạo ra những khoản nợ mới.

Chẳng hạn, trong tài sản cố định của Vinashin tính đến cuối năm 2009 là 42.500 tỷ đồng (lấy số tròn) thì có gần một nửa (20.000 tỷ đồng) là đang xây dựng dở dang. Thử hỏi để các tài sản đang xây dựng dở dang này thành tài sản có thể khai thác được, cần phải vay nợ thêm bao nhiêu tiền? Trong tài sản ngắn hạn cũng chừng 50.000 tỷ đồng, có đến hơn một nửa (26.000 tỷ đồng) là các khoản phải thu. Biết bao nhiêu trong số đó là các con tàu mà người thuê đóng đã bỏ hợp đồng, và biến khoản phải thu thành không thu được? Hàng tồn kho của Vinashin đến cuối năm 2009 là 18.000 tỷ đồng, biết bao nhiêu trong số đó là tàu đóng xong không bán được? Tất cả đều là tài sản của Vinashin đấy!

Như tôi đã viết trước đây, vấn đề không phải là Vinashin nợ bao nhiêu (dù tính cho ra con số chính xác cũng rất quan trọng), vấn đề là làm sao trả những khoản nợ đến hạn. Nếu ngân sách phải đứng ra trả thì phải báo cáo một cách sòng phẳng cho Quốc hội, cho mọi người dân.


Bổ sung: Bên cạnh việc truy cứu trách nhiệm để xảy ra vụ đổ vỡ Vinashin, thiết nghĩ cũng cần phải yêu cầu Chính phủ giải trình rõ việc dọn dẹp hậu quả cú đổ vỡ này như thế nào. Không thể tin được vào những lời lạc quan tếu như kiểu hai ba năm nữa Vinashin sẽ bắt đầu làm ăn có lãi.

Nếu Vinashin là một công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán ở một nước nào đó, giờ đây giá cổ phiếu của nó ắt đã bốc hơi gần hết. Lúc đó, nếu nó thuộc loại không thể không cứu, chính phủ nước này ắt sẽ quốc hữu hóa nó, biến những khoản tiền rót vào giải cứu thành equity (vốn). Đến lúc vực dậy được rồi, chính phủ sẽ bán lại để thu hồi tiền của người dân đóng thuế.

Vinashin đã là công ty quốc doanh nên không thể quốc hữu hóa được nữa. Con đường duy nhất là tách nó ra, không phải tách thành ba phần như đã làm, mà tách công ty mẹ ra và để các công ty con thành những công ty riêng lẻ. Chuyện này cũng không khó vì thực chất cái gọi là tập đoàn Vinashin chỉ là hữu danh vô thực, đâu có tư cách pháp nhân. Chỉ có cái thực thể công ty mẹ là có tư cách pháp nhân, nên việc tách ra như vậy chỉ là trả lại đúng thực chất. Từng công ty, là những tư cách pháp nhân riêng lẻ, phải thương lượng với chủ nợ để thuyết phục họ chuyển nợ thành vốn, bán nợ… Rủi ro mất trắng khi từng công ty riêng lẻ phá sản sẽ buộc chủ nợ ngồi vào bàn đàm phán. Những khoản giải cứu rót từ ngân sách, nếu có, cũng phải chuyển thành vốn chủ sở hữu, để sau này còn tính đường thu hồi nhờ cổ phần hóa hay bán lại doanh nghiệp.

Bổ sung: Bộ trưởng Võ Hồng Phúc hôm qua cũng phân bua, rằng các tập đoàn thường hay dở luật ra để đối phó khi Bộ đến kiểm tra về các dự án đầu tư. Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 có quy định cho phép Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng quản trị ủy quyền cho Tổng giám đốc được phép quyết định đầu tư vốn của một dự án có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng 50% tổng giá trị tài sản ghi trên báo cáo tài chính. Vì thế, ông Phúc giả định, Vinashin có tài sản 113.000 tỷ đồng theo sổ sách thì họ có thể quyết định đầu tư đến 55.000 – 57.000 tỷ đồng tức là hơn cả dự án đặc biệt quan trọng phải trình Quốc hội.

Ông Phúc nói vậy là chưa đầy đủ.

Luật Doanh nghiệp có quy định như vậy. Nhưng ngay sau đó, Nghị định 199/2004 như một nghị định hướng dẫn thi hành luật này, nói rõ: “Hội đồng quản trị quyết định các dự án đầu tư có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng 50% tổng giá trị tài sản ghi trên báo cáo tài chính của công ty được công bố tại quý gần nhất, nhưng không quá mức cao nhất của dự án nhóm B theo quy định của pháp luật về quản lý dự án đầu tư, xây dựng”.

Mức cao nhất của dự án nhóm B là 600 tỷ đồng.

Quy chế quản lý tài chính các công ty nhà nước ban hành năm 2009 cũng có quy định rõ như thế. Làm gì có chuyện luật cho phép Vinashin tự quyết các dự án lên đến 55.000 tỷ đồng!


Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2010

Độ tin cậy của những con số

Độ tin cậy của những con số

Trong tuần rồi, hai buổi tranh luận trực tuyến do VietnamnetVnExpress tổ chức về các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên đã cung cấp nhiều thông tin cho người quan tâm. Phải thừa nhận các quan chức Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên Môi trường và đại diện chủ đầu tư là Tập đoàn Than Khoáng Sản (TKV) đã làm đúng chức trách của mình. Việc đồng ý tranh luận công khai như vậy là một bước tiến lớn so với chỉ cách đây một năm, khi đề tài bauxite Tây Nguyên là đề tài nhạy cảm. Có tranh luận như vậy, cả bên phản đối và bên ủng hộ đều phải đưa ra những lập luận, lý lẽ, bằng chứng để thuyết phục người đọc.

Về hiệu quả kinh tế, đã có nhiều người nhận xét tính chính xác của các con số do các quan chức và chủ đầu tư đưa ra như vốn đầu tư, rồi giá thành alumin thay đổi, tăng quá nhanh trong vòng 1 năm, dự báo giá alumin khá chủ quan…

Ở đây tôi chỉ xin bình luận về một chi tiết nhỏ.

Trong buổi đối thoại trên VnExpress, ông Nguyễn Mạnh Quân, Vụ trưởng Vụ Công nghiệp Nặng (Bộ Công Thương) có nói:

Việc tăng vốn đầu tư ảnh hưởng không nhiều đến hiệu quả kinh tế dự án (tăng 25% vốn đầu tư, IRR chỉ tăng 7,12%). Về thuế xuất khẩu, thuế xuất khẩu alumni có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả kinh tế của dự án do 100% sản phẩm alumni dự kiến xuất khẩu. Nếu thuế suất xuất khẩu giảm xuống mức 10%, IRR giảm 12%.

Dạo này, các quan chức thích dùng khái niệm IRR, thiết nghĩ cũng nên bỏ công ra tìm hiểu nó là gì.

(Phần dưới là trích lại một bài báo tôi viết cũng đã lâu rồi, nếu không thích đọc cũng không sao)

Giả thử bạn bỏ ra một khoản tiền ban đầu là 40 triệu đồng đầu tư vào việc mua máy photocopy và các chi phí khác để làm dịch vụ sao chụp cho khách hàng trong khu phố. Cũng giả thử 10 năm tới bạn tính toán và dự báo số tiền thu được từ dịch vụ này sau khi trừ mọi chi phí là 7,5 triệu đồng mỗi năm còn năm thứ 10 bạn định thanh lý chiếc máy được 9,5 triệu nữa. Vấn đề bạn phải quyết định là so giữa khoản tiền đầu tư ban đầu và các khoản tiền thu được như thế, dự án dịch vụ photocopy này có đáng làm không?

Thông thường, người ta dùng cách tính thời gian thu hồi vốn (payback period) bằng cách lấy tổng đầu tư chia cho dòng tiền hàng năm. Trong dự án nói trên, thời gian thu hồi vốn đầu tư là 5 năm 4 tháng. Người ta cũng thường đánh giá dự án có nên thực hiện hay không bằng cách so sánh thời gian thu hồi vốn vừa tính toán với thời gian thu hồi vốn đã định trước. Giả thử ở dự án photocopy, bạn dự tính thu hồi vốn trong vòng 5 năm, nay tính toán thấy mất hơn 5 năm một chút, có lẽ bạn sẽ quyết định không làm.

Phương pháp “tính rợ” này không giúp ích gì nhiều cho bạn vì rõ ràng nó không đếm xỉa gì đến “giá trị thời gian” của dòng tiền. Số năm định trước trong đầu dùng để đối chiếu so sánh cũng là một con số chủ quan. Loại phương pháp này chỉ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về khả năng lời lỗ của dự án.

Áp dụng công thức trong sách giáo khoa, người ta sẽ tính giá trị hiện tại của dòng tiền tương lai (7,5 triệu đồng/năm trong 9 năm và 17 triệu đồng năm thứ 10), xem thử vào thời điểm bây giờ chúng đáng giá bao nhiêu nếu lãi suất dùng để chiết khấu là 10%.

Giá trị hiện tại = (7,5 x 5,759) + 17 x 0,386) = 49,75 triệu đồng.

(Nếu bạn quên vì sao có các con số ở phép tính nói trên, xin nhắc lại 5,759 là giá trị hiện tại của 1 đồng mỗi năm, nhận suốt trong 9 năm, chiết khấu cho mức lãi suất 10%/năm; còn 0,386 là giá trị hiện tại của 1 đồng nhận ở năm thứ 10, dùng lãi suất chiết khấu tương tự).

Nếu lấy 49,75 triệu trừ cho 40 triệu, chúng ta sẽ có con số 9,75 triệu đồng – là giá trị hiện tại thuần (net present value) mà dân tài chính thường gọi tắt là NPV. Như vậy NPV là giá trị hiện tại của dòng tiền tương lai của một dự án trừ đi chi phí đầu tư ban đầu. Thông thường người ta nói NPV bằng 0 hay lớn hơn thì dự án ấy chấp nhận được; còn nếu NPV là số âm thì thôi, đừng tơ tưởng gì đến nó nữa.

Chúng ta thấy yếu tố quan trọng ở đây là mức lãi suất chiết khấu. Giả thử thay vì bỏ 40 triệu đồng đầu tư vào dịch vụ photocopy, chúng ta gởi quách vào ngân hàng cho khoẻ, lãi suất hàng năm là 8%. Còn đã ra làm ăn, mức lãi phải cao hơn, ở đây là 10% chẳng hạn. Như vậy, mức lãi suất chiết khấu được chọn làm sao để phản ánh chi phí sử dụng đồng vốn, dù nó là của mình (cơ hội bỏ qua khi đem tiền đó làm chuyện khác) hay đi vay của người khác (ắt phải cao hơn mức lãi suất đi vay).

Vì thế, để dễ hình dung, người ta dùng một phương pháp khác nữa, gọi là tỷ suất thu nhập nội bộ (internal rate of return) mà sách vở thích gọi tắt là IRR để tính hiệu quả dự án. IRR chính là mức lãi suất chiết khấu nói ở trên, được chọn làm sao để NPV bằng 0. Trong dự án photocopy giả định từ đầu đến giờ, nếu dùng lãi suất chiết khấu 10% thì NPV là 9,75 triệu. Cứ tăng IRR lên dần, đến 14,99% (cứ cho là 15% đi) thì NPV bằng 0. Tiêu chuẩn để chọn làm hay không làm một dự án là so sánh IRR của nó với lãi suất sử dụng đồng vốn, cao hơn thì chấp thuận, thấp hơn thì từ chối còn bằng nhau thì làm chả đáng bỏ công.

Con số IRR được giới quản lý khoái nhất vì dễ hình dung. Giả thử trình bày trước các thành viên trong công ty, bạn nói dự án này có NPV là 20 triệu (trong khi số vốn đầu tư lên đến tiền tỷ) chắc chẳng ai có ấn tượng gì. Trong khi đó nếu nói IRR của dự án là 25,6%, chà, sẽ có tiếng xuýt xoa bên dưới, dự án này được đấy. Nhưng giới tài chính cũng đều biết phương pháp tính IRR có nhiều nhược điểm, không thể trình bày hết ở đây.

Bây giờ chúng ta đọc lại câu nói của ông Quân: “Việc tăng vốn đầu tư ảnh hưởng không nhiều đến hiệu quả kinh tế dự án (tăng 25% vốn đầu tư, IRR chỉ tăng 7,12%). Về thuế xuất khẩu, thuế xuất khẩu alumni có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả kinh tế của dự án do 100% sản phẩm alumni dự kiến xuất khẩu. Nếu thuế suất xuất khẩu giảm xuống mức 10%, IRR giảm 12%.

Rõ ràng ông Quân nói sai rồi. Vốn đầu tư tăng thì IRR sẽ giảm chứ sao lại tăng; và thuế giảm thì IRR sẽ tăng, sao lại giảm?

Chính vì thế, những con số khác mà các quan chức và đại diện chủ đầu tư đưa ra đều có độ tin cậy thấp.

Lấy ví dụ, trong báo cáo về các dự án bauxite của Chính phủ gởi tới Quốc hội vào năm ngoái, tức là văn bản trả lời chính thức về vấn đề này, Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng có cung cấp một số thông tin về hiệu quả kinh tế của các dự án này như sau:

- Hiệu quả kinh tế của dự án được tính toán dựa trên cơ sở dự báo, phân tích và lựa chọn giá bán alumin bình quân cho cả giai đoạn tồn tại của dự án 362 USD/tấn.

- Tỷ lệ hoàn vốn nội tại (IRR) là 11,4% (Tân Rai) và 10,6% (Nhân Cơ).

Trong khi đó, các con số mới đưa ra tuần này lại quá khác:

- Giá bán khi thì tính là 315 USD/tấn alumin (Dự án Lâm Đồng) và 330 USD/tấn alumin (Dự án Nhân Cơ); khi thì đưa ra giá trung bình để tính toán hiệu quả là 335 USD/tấn; khi thì dựa vào dự báo lên đến 340-650 USD/tấn trong giai đoạn 2011-2020; khi thì đưa ra giá bán bình quân thực tế của năm 2010 chỉ là 210 USD/tấn…

- IRR của Nhân Cơ nay chỉ còn là 8,24%.

Những điều cơ bản, dễ tính như trên mà còn có độ tin cậy thấp thì làm sao tin tưởng được vào những kế hoạch bảo vệ môi trường, là mối quan tâm lớn nhất của người dân hiện nay?

Bauxite và Vinashin

Bauxite và Vinashin

(Bài này đã đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số ra ngày 28-10)

Giữa hai dự án bauxite ở Tây Nguyên và Vinashin có điểm gì chung?

Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng ta thử xem thông lệ quốc tế (và phần nào cũng đã được thể hiện trong dự thảo Luật Khoáng sản sửa đổi của Việt Nam) thường ứng xử như thế nào với nguồn khoáng sản của đất nước. Giả sử phát hiện ở một vùng đất có trữ lượng bauxite dồi dào, Nhà nước sẽ tổ chức đấu thầu thăm dò, việc thăm dò có thể gắn với quyền lợi khai thác sau này. Sau khi thăm dò, biết trữ lượng xong, Nhà nước sẽ cân nhắc coi có nên cho khai thác không với những yếu tố đặt lên bàn cân như môi trường, hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội... Nếu quyết định khai thác, Nhà nước cũng sẽ tổ chức đấu thầu với đề bài là những yếu tố này, trong đó có thể bù đắp hiệu quả tài chính thấp bằng ưu đãi thuế nếu muốn phát triển vùng đất đó hay ấn định phần nộp cho Nhà nước cao nếu việc khai thác dễ dàng. Doanh nghiệp nào thỏa mãn tốt nhất những yêu cầu đặt ra sẽ trúng thầu và được quyền khai thác. Lúc đó, các cơ quan của Nhà nước sẽ đóng vai trò giám sát xem doanh nghiệp có tuân thủ cam kết, như cơ quan môi trường phải theo dõi chặt việc tuân thủ bảo vệ môi trường, ngăn ngừa thảm họa.

Việt Nam lại làm khác và yếu tố tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) là một doanh nghiệp nhà nước, lại là một tập đoàn kinh tế, đóng vai trò rất lớn trong chuyện làm khác này. Trong quyết định mới nhất chuyển TKV thành công ty TNHH một thành viên, Thủ tướng Chính phủ (và các bộ theo ủy quyền của Chính phủ) thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với tập đoàn này hay nói cách khác Thủ tướng Chính phủ là “ông chủ” trực tiếp của TKV và các bộ trưởng là “ông chủ” trong một số trường hợp. Trong một cơ chế như vậy, lúc kinh doanh, gặp trục trặc gì TKV sẽ được làm việc trực tiếp với Thủ tướng, liệu các bộ có còn đóng được vai trò cơ quan quản lý nhà nước một cách bình thường không? Các bộ khi đóng vai ông chủ có còn khách quan với doanh nghiệp “của mình” không? Vì thế không lạ gì khi ông Phạm Khôi Nguyên, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, lại đi khẳng định giùm chủ đầu tư hồ chứa bùn đỏ ở các dự án khai thác bauxite là bảo đảm an toàn.

Trường hợp Vinashin cũng vậy nhưng tình hình còn phức tạp hơn với hàng trăm công ty con, công ty cháu của Vinashin. Cứ tạm thời cho rằng đây là hai trong số 12 tập đoàn kinh tế của Nhà nước, được hưởng đặc quyền này, nhưng thế thì ứng xử ra sao với các công ty con, công ty cháu của họ? Công ty mẹ Vinashin đẻ ra tổng cộng 435 công ty con và công ty hạch toán phụ thuộc, 30 công ty liên kết và liên doanh. Chính vì cơ chế chủ sở hữu nhập nhằng giữa vai trò nhà quản lý hành chính và người đại diện vốn nhà nước nên các công ty này có vay mượn lung tung, có xin đất làm dự án trên giấy thì các bộ, các địa phương cũng e dè không dám làm gì, không dám lên tiếng phản đối. Thậm chí các công ty kiểu này còn tận dụng vị thế đặc quyền trong nhiều thương vụ để cuối cùng toàn bộ tập đoàn Vinashin gánh một khoản nợ khổng lồ như chúng ta đã biết. Chính Bộ trưởng Giao thông - Vận tải Hồ Nghĩa Dũng cũng thừa nhận trên báo Tiền Phong: “Chúng tôi chỉ được góp ý”. Trong bối cảnh như thế, Vinashin không báo cáo gian dối mới là chuyện lạ.

Nhiều người đã lên tiếng về nguy cơ tàn phá môi trường của các dự án bauxite ở Tây Nguyên. Cũng có nhiều người khác phân tích rạch ròi về tính kém hiệu quả kinh tế của chúng. Nhưng bài học quản lý Vinashin đang nóng hổi, nên áp dụng những điều có thể rút ra vào các dự án bauxite. Có lẽ thoạt tiên việc xây dựng ngành đóng tàu Việt Nam cũng là nhiệm vụ được Chính phủ giao cho Vinashin như hiện đang giao cho TKV khai thác tài nguyên bauxite. Việc bảo lãnh cho Vinashin vay vốn quốc tế cũng nhằm tạo sức mạnh tài chính cho Vinashin để nhanh chóng thực hiện nhiệm vụ như hiện nay đang rót vốn cho TKV, nơi này cũng đang chuẩn bị phát hành trái phiếu quốc tế như Vinashin. Cách đây mấy năm, TBKTSG cũng đã đăng tải ý kiến của các chuyên gia phân tích lợi hại của việc phát triển ngành đóng tàu trong bối cảnh lúc đó. Những cảnh báo đưa ra vào thời điểm đó chỉ nhấn mạnh thiệt hơn mà chưa tính đến yếu tố cố ý làm sai của Vinashin.

Ngày nay chúng ta đang bàn về những điểm bất cập của các dự án bauxite (và chúng cũng đã đủ để ngưng các dự án này đến một thời điểm khác trong tương lai) nhưng liệu với cơ chế chủ sở hữu như trên, làm sao chúng ta có thể tin vào sự khách quan của Thứ trưởng Bộ Công Thương khi ông đồng thời là Chủ tịch Hội đồng thành viên TKV? Sự thiếu vắng giám sát đang là bài học của Vinashin, vậy nó có là bài học cho các dự án bauxite khi Bộ Tài nguyên và Môi trường xem như đứng chung với TKV để đưa ra những lý lẽ “trên lý thuyết” để ủng hộ dự án? Rồi đây TKV có chạy thẳng lên Thủ tướng hay lên bộ, bỏ qua các quy định quản lý mà luật pháp phân công cho địa phương, chẳng hạn? Và nếu thảm họa môi trường xảy ra, ai sẽ là người chịu trách nhiệm? Nếu giả sử quản lý kém để gây ra thua lỗ, ắt TKV vẫn sẽ yên tâm vì biện bạch là đang thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao.

Nhìn rộng ra, đã đến lúc phải xem lại cơ chế chủ sở hữu các tập đoàn kinh tế để làm sao phân định rạch ròi chuyện quản lý nhà nước và chuyện kinh doanh, cho dù là kinh doanh theo định hướng chiến lược của Nhà nước. Nếu không rồi đây chúng ta sẽ còn phải than như đang than: không có một đầu mối nào chịu trách nhiệm cả. Và Thủ tướng sẽ còn phải giải quyết núi công việc do các tập đoàn đưa lên - một chuyện thực tế đã cho thấy là không khả thi và đã không diễn ra.

Thứ Tư, 27 tháng 10, 2010

Khi Phó Thủ tướng giảng bài

Khi Phó Thủ tướng giảng bài

Định không viết nhưng cuối cùng cũng phải viết vài dòng, chủ yếu là cho các bạn phóng viên trẻ. Bản tin “Phó thủ tướng giảng bài trực tuyến” đăng trên VnExpress được trang web Topica - Cử nhân trực tuyến đăng lại nên có thể tin rằng phóng viên tường thuật chính xác nội dung bài giảng của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân. Topica là nơi tổ chức buổi giảng này, mang tựa đề “Ngăn ngừa nguy cơ khủng hoàng tài chính ở Việt Nam”.

Vấn đề là khi viết tin, nếu thấy nguồn tin nói chưa chính xác thì phải làm sao?

Ví dụ, tin viết: “Cho rằng, nền kinh tế Mỹ bị khủng hoảng một phần là do thâm hụt ngoại thương, ông [Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân] phân tích, trước khi khủng hoảng, nợ của Mỹ gần bằng 100% GDP”.

Phóng viên có thể ghi ngay sau đó, theo [bất kỳ nguồn nào], nợ chính phủ Mỹ năm 2006 hay 2007 chỉ bằng khoảng 65% GDP nước này, xem như để nói lại cho rõ giùm Phó Thủ tướng. Mức này những năm trước đó tăng chậm (năm 2003 cũng ở khoảng 62-63%, chỉ sau khủng hoảng nó mới tăng nhanh do chính phủ Mỹ tiêu tiền giải cứu nền kinh tế). Cái đồng hồ nợ của Mỹ nổi tiếng ấy, đến năm nay nó cũng mới chỉ vào khoảng 13.600 tỷ đô-la, so với GDP của Mỹ chừng 14.600 tỷ đô-la, nợ của Mỹ chưa đến 100%. Mà thâm hụt ngoại thương thì có liên quan gì đến nợ của Mỹ nhỉ? Chỗ này thì phóng viên khó lòng làm được gì nhiều cho bản tin của mình. Và nợ của Mỹ là tính đúng, tính đủ cả những khoản như những nghĩa vụ nợ của các quỹ hưu trí, bảo hiểm y tế...

Đến câu tiếp đó: “Sau khi đề cập tới khoản vay nước ngoài của Mỹ tăng từ hơn 100 tỷ USD (1997) lên 800 tỷ USD (2007) khiến nước này lâm vào khủng hoảng….”.

Phóng viên có thể áp dụng cách trên, ghi rõ nợ nước ngoài của Mỹ vào năm 2007 là 13.427 tỷ đô-la, theo chính số liệu của Bộ Tài chính Mỹ. Con số này nó lớn hơn con số Phó Thủ tướng đưa ra nhiều lần lắm.

Sau cùng là câu này: “Nguyên nhân cuối cùng dẫn tới khủng hoảng của Mỹ chính là thị trường tài chính phát triển quy mô lớn nhưng lại được giám sát, đánh giá rủi ro thiếu khách quan. Theo Phó thủ tướng, bài học ở đây chính là muốn đánh giá rủi ro của một quốc gia, không chỉ để người nước ngoài đánh giá mà chính mình phải đánh giá và đủ độ tin cậy.”

Phóng viên có thể kiểm tra thông tin nền để nói rằng ba hãng đánh giá tín dụng lớn nhất thế giới mà các tập đoàn của Mỹ cũng đang sử dụng là Fitch Rating, Moody’s và Standard & Poor’s đều là của Mỹ cả. Tức là Mỹ cũng dùng người nước mình để đánh giá đó chứ, đâu phải họ để nước ngoài nào đâu.

Cuối tin cũng nên bổ sung thông tin nền là Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân từng kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo và không phụ trách lãnh vực kinh tế-tài chính trong Chính phủ.

Bài đăng phổ biến