Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011

Luật để làm gì?

Luật để làm gì?

Tuần qua, dư luận chê cười một đề xuất xây dựng Luật Nhà văn với hầu như tất cả ý kiến cho rằng một dự luật như thế là không cần thiết trong bối cảnh có rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cần luật hóa hơn nhiều. Thật ra, đằng sau một đề xuất như thế còn nổi lên một vấn đề quan trọng khác: chúng ta xây dựng luật là để điều chỉnh các mối lợi ích để tiến đến một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh hay luật nhằm mục đích phục vụ lợi ích nhóm?

Để dễ hình dung, chúng ta hãy lấy vấn đề xã hội hóa các dịch vụ y tế và bảo hiểm y tế để minh họa. TBKTSG số ra tuần rồi (ngày 3-11-2011) có hai bài về đề tài này, trong đó bài “Người nghèo ít được hưởng lợi từ bảo hiểm y tế” cung cấp nhiều con số cho thấy đã có sự chênh lệch rất lớn giữa việc thụ hưởng quyền lợi từ bảo hiểm y tế giữa người nghèo và người giàu, giữa nông thôn và thành thị. Người dân vùng khó khăn chỉ được đi khám, chữa bệnh tại y tế cơ sở và được chi trả khoảng vài trăm ngàn đồng cho những lần khám chữa bệnh. Trong khi đó, tại các thành phố, số tiền chi trả cho người tham gia bảo hiểm y tế có thể lên tới vài trăm triệu đồng, chẳng khác nào “nhà nghèo đóng tiền khám bệnh cho nhà giàu”.

Bài “Mất quyền kiểm soát dịch vụ y tế” còn cho thấy một bức tranh đáng ngại hơn khi cho thấy chủ trương xã hội hóa dịch vụ y tế (kêu gọi đầu tư tư nhân vào trang thiết bị y tế tại bệnh viện) đến nay đã bộc lộ những mặt trái: lạm dụng kỹ thuật, bắt chẹt bệnh nhân. Ví dụ, tại bệnh viện Đa khoa Bình Định, 100% bệnh nhân vào khám bệnh đều bị buộc phải chụp cộng hưởng bất kể khám bệnh gì.

Đó là một thực tế. Nếu một đại biểu Quốc hội nào đó thấy không thể kéo dài tình trạng trên bèn suy nghĩ phải xây dựng một đạo luật mới hay chỉnh sửa đạo luật cũ sao cho việc thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm y tế được công bằng hơn, bệnh nhân không bị bắt buộc làm các xét nghiệm không cần thiết. Các chuyên gia luật pháp sẽ giúp soạn thảo đề án luật thể hiện được tinh thần này – một việc không dễ dàng gì. Dự luật được đưa ra thảo luận, các đại biểu gần gũi với quyền lợi của nơi đã bỏ tiền ra đầu tư trang thiết bị máy móc vẫn còn cần thu hồi vốn ắt sẽ phản đối nhưng đa số đại biểu vì quyền lợi của cử tri sẽ thông qua dự luật. Một vấn đề xã hội được giải quyết. Xã hội tiến gần hơn mục tiêu công bằng thêm một chút nữa.

Tinh thần làm luật là như vậy chứ luật không phải được làm ra để tạo điều kiện cho bất kỳ một ai hưởng được những ưu đãi, những đặc quyền hay một nhóm người nào đó sự thuận tiện so với nhóm người khác. Nếu luật nhằm tạo sự thuận tiện cho chính quyền trong việc quản lý cũng không đúng với tinh thần luật là nhằm ngăn ngừa sự bất công.

Trong bối cảnh đó, dự án Luật Nhà văn nên bị bác bỏ khỏi chương trình làm luật của Quốc hội vì lý do gì (tức là nói làm cho cho người đề xuất cũng thấy bị thuyết phục, chứ không đơn giản chê cười họ)? Nếu luật được dùng để điều chỉnh lợi ích của nhà văn thì đã có những sắc luật khác chi phối như Luật Sở hữu trí tuệ trong đó có quyền tác giả, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, các quy định về hợp đồng… Ngược lại, nếu nó được dùng để chi phối hoạt động sáng tác của nhà văn thì đúng là nó phục vụ cho lợi ích của Hội Nhà văn trong công việc của họ nên đáng bị phê phán, châm biếm. Nếu chỉ vì muốn kiểm soát việc nhà văn viết hồi ký, tránh chuyện gây tranh cãi nhà văn này bóp méo sự thật, nhà văn kia bịa chuyện, xuyên tạc mà cất công trình dự án luật thì đúng là chuyện tầm phào.

Nhìn rộng hơn một chút, chúng ta sẽ thấy những sáng kiến đề xuất xây dựng luật theo kiểu đó ngày càng xuất hiện nhiều. Chúng sẽ không dễ bị phản bác như Luật Nhà văn đâu – bởi chúng cũng sẽ xuất phát từ lợi ích nhưng lợi ích của nhóm đông hơn, tiếng nói mạnh hơn. Từ chuyện sát sườn như hạn chế ô tô hay hạn chế xe máy đến chuyện khó thấy hơn như ưu tiên cho thủy điện hay ưu tiên cho bảo vệ rừng. Người đại biểu sẽ bị đặt vào những tình huống khó xử hơn khi phải cân nhắc hài hòa lợi ích của các nhóm dân cư. Nhưng sự phân vân của họ sẽ chấm dứt khi họ quyết định dựa trên nền tảng: luật pháp là nhằm phục vụ cho sự công bằng của xã hội khi loại trừ được sự bất công và lạm quyền.

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Cơ hội xuyên biên giới

Cơ hội xuyên biên giới

Hôm qua, sau khi viết xong entry “Thu hồi được không?”, tôi chợt nghĩ, việc phát hành sách qua Amazon là một cơ hội làm ăn lớn, sao các nhà xuất bản trong nước không chộp lấy nhỉ.

Chỉ nói riêng về thị trường đọc sách tiếng Việt ở nước ngoài, số lượng độc giả tiềm năng cũng đã rất lớn. Nhiều người Việt ở nước ngoài khi về thăm quê đều mua một ít sách về cho mình hoặc làm quà tặng bạn bè. Nhiều người ở nước ngoài nhờ người trong nước mua sách gởi qua. Chi phí chuyên chở và sự nhiêu khê là một trở ngại lớn.

Nay thế giới in ấn xuất bản sách đang trải qua những thay đổi to lớn. Sách điện tử đang lấn lướt sách in, vào tháng 2 năm nay, số lượng sách điện tử bán ra ở Mỹ đã vượt sách in, cả bản bìa cứng cộng bản bìa mềm. Sách điện tử giúp dẹp bỏ rào cản địa lý, không còn mất công, mất tiền chuyên chở, chờ đợi. Bấm vài cái, sách chạy ngay vào máy của mình, ai mà không thích. Trước, đọc sách trên máy tính nhiều người chê mỏi mắt, ngồi đau lưng; nay đã có nhiều loại máy đọc sách chuyên dụng như Kindle, Nook, Sony Reader… đọc trên đó như đọc trên giấy in bình thường.

Giả thử nhà xuất bản hợp tác với Amazon, đưa sách của mình lên mạng; ấn bản điện tử bán với giá rẻ thôi, chừng 2 đô-la, chắc chắc trong hàng triệu người Việt đang sinh sống ở nước ngoài cũng có vài ngàn người mua, còn cao hơn số lượng in thường thấy hiện nay đối với sách in trong nước.

Chuyện đó không khó gì cả bởi đã có người làm rồi.

Thị trường trong nước to lớn hơn nhiều nhưng ngược lại, không hy vọng được gì nhiều lắm. Không phải vì người trong nước không đọc sách trên máy. Theo chỗ tôi biết đã có hàng ngàn máy Kindle được bán ở Việt Nam. Nếu cộng cả các loại máy tính bảng như iPad mà đọc sách cũng là một trong những chức năng chính thì con số khách hàng tiềm năng cho loại sách điện tử ở Việt Nam khá lớn.

Nhưng thị trường này đã hỏng vì tệ ăn cắp bản quyền. Hàng chục ngàn cuốn sách đã được đưa lên mạng dưới dạng ebook. Bất kỳ cuốn sách nào hay, bán chạy, ra đời chưa bao lâu sẽ có ấn bản ebook “miễn phí” trên mạng. Cuốn Steve Jobs vừa mới ra mắt bên Mỹ được một ngày, hôm sau đã thấy cho tải về miễn phí trên một diễn đàn ở Việt Nam. Sách mua trên Amazon, thường chỉ đọc được trên tối đa 6 thiết bị mà người mua đã đăng ký nhưng người ta vẫn có đồ nghề bẻ khóa và chia sẻ cho toàn thiên hạ. Tạm thời chưa thể trông chờ thị trường ebook có bản quyền ở Việt Nam cất cánh nhưng vẫn sẽ có người bỏ tiền mua sách điện tử có bản quyền, nhất là nếu sách có giá phải chăng, việc thanh toán thuận tiện.

Trở lại với thị trường nước ngoài, không những chỉ có sách mà cũng nên nghĩ đến chuyện phát hành báo, tạp chí qua mạng như Amazon. Họ đang cung ứng dịch vụ này cho những tờ báo nổi tiếng như New York Times (báo ngày) hay Time (tuần báo). Đăng ký mua kiểu này rẻ hơn, hàng sáng hay hàng tuần nội dung báo được gởi tự động vào máy đọc sách của người đăng ký. Chi phí phát hành xem như không đáng kể - tại sao không thử làm nhỉ?

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Thu hồi được không?


Thu hồi được không?

Thời đại kỹ thuật số, nếu không thay đổi cách suy nghĩ và cách hành xử, người ta dễ bị hố.

Chuyện cuốn “Sát thủ đầu mưng mủ” bị thu hồi thì ai cũng biết nhưng có lẽ ít người biết sách đang được chào bán qua Amazon (đây là đường dẫn). Điều đó có nghĩa, bất kỳ ai có thẻ tín dụng đều có thể mua sách và tùy cách thức nhận sách, có thể lấy về máy tính để bàn, máy tính xách tay, điện thoại thông minh, máy tính bảng iPad và đặc biệt là máy đọc sách Kindle trong nháy mắt.

Mà cũng lạ nhỉ, thu hồi sách là do Nhà xuất bản Mỹ thuật thế thì ai ký hợp đồng với Amazon để đưa sách lên bán? Không lẽ là Indochine, nơi quảng bá là đơn vị độc quyền phát hành cuốn sách này (chắc là ở nước ngoài)?

Với những nhà sách trực tuyến như Amazon, có lẽ sẽ đến ngày nhà xuất bản trung gian biến mất, tác giả làm việc thẳng với Amazon để đưa sách trực tiếp đến người đọc. Chuyện này đã xảy ra rồi và đang có chiều hướng bùng nổ. Trong khi đó chúng ta vẫn đang loay hoay nay thu hồi cuốn này, mai thu hồi cuốn khác. Amazon có phần phản hồi của độc giả rất phong phú. Hãy đợi vài hôm xem độc giả phê bình cuốn sách này như thế nào. Nếu ai cũng chê nó "nhảm nhí" và khuyên người khác đừng mua uổng tiền thì đâu cần lệnh thu hồi nào, tự nó cũng dần biến mất trên kệ sách.


Thứ Tư, 2 tháng 11, 2011

Nợ và trả nợ

Nợ có thể chưa lo nhưng trả nợ thì phải lo

Nhiều quan chức tuần trước đã trấn an nợ công Việt Nam không có gì đáng lo. Đi kèm là những con số dùng để chứng minh, có thể lời trấn an này đã làm nhiều người yên tâm.

Thế nhưng, cần phải biết hiện nay Việt Nam phải sử dụng khoảng 14-16% ngân sách để chi trả nợ. Điều đó có nghĩa số tiền bỏ ra trả nợ hàng năm bằng toàn bộ số tiền chi cho giáo dục và đào tạo; nó cũng gấp đôi số tiền chi cho y tế; bằng gần 20 lần chi cho khoa học công nghệ.

Nói trên con số cụ thể, theo Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ, năm 2012, số tiền trả nợ tương đương khoảng 100.000 tỷ đồng. Để hình dung con số này lớn bao nhiêu, chúng ta hãy so sánh nó với vài con số thu về cho ngân sách. Theo dự toán ngân sách năm 2011 do Bộ Tài chính công bố, toàn bộ thu thuế thu nhập cá nhân chỉ vào khoảng 29.000 tỷ đồng, có nghĩa phải tăng số tiền thu thuế thu nhập cá nhân lên hơn ba lần mới đủ trả nợ. Thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp bằng 154.000 tỷ đồng, chỉ đủ để trả nợ hằng năm cộng với chi cho y tế là gần hết.

Khoảng tiền trả nợ hằng năm, tính theo đô-la Mỹ là vào khoảng 4,8 tỷ đô-la. Cam kết cho vay theo hình thức ODA năm 2011 là 7,88 tỷ đô-la nhưng đó chỉ là con số cam kết; con số giải ngân thấp hơn rất nhiều. Tổng giải ngân ODA năm 2010 chỉ đạt 3,5 tỷ đô-la (trong khi con số cam kết cho vay là 7,9 tỷ đô-la). Như vậy tiền trả nợ còn cao hơn cả tiền vay mới theo dạng ODA (cho dù không phải tất cả các khoản trả nợ là để trả nợ ODA)!

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011

Xuống dốc

Xuống dốc

Giả thử, người đứng đầu một địa phương một hôm đẹp trời đi vi hành khắp các quán cà phê. Ông nổi giận khi thấy thanh niên không chịu đi làm việc mà cứ mải mê trong khói thuốc bên ly cà phê; bèn ra về và ban lệnh cấm khách ngồi uống cà phê quá hai tiếng! Xin nói ngay đây là một chuyện giả tưởng để bàn chuyện khác chứ không có địa phương nào ra lệnh kỳ quái như thế.

Cách “trị dân” của ông này chính là hình ảnh trái ngược của khái niệm Nhà nước pháp quyền và gọi cho đúng bản chất sự việc thì đây là “độc tài”, “độc đoán” dù thiện ý của nhà lãnh đạo này cũng đã rõ.

Một xã hội dân chủ sẽ giải quyết lợi ích cá nhân trong tương quan với lợi ích xã hội bằng một dạng hợp đồng, trong đó cá nhân chịu hy sinh một số quyền tự do nhất định, chịu bị ràng buộc bởi các quy ước chung để mọi người có thể chia sẻ nguồn lực xã hội một cách công bằng nhất.

Nếu thay cà phê trong ví dụ trên bằng ma túy chẳng hạn, rất dễ thấy mọi người trong cộng đồng sẽ đồng tình với điều luật cấm mua bán, sử dụng ma túy, ai vi phạm sẽ bị trừng phạt đích đáng. Nhưng tất cả phải được thể hiện trước tiên bằng ý muốn của cả cộng đồng thông qua các điều luật làm nền tảng cho việc điều hành của cơ quan công quyền. Lúc đó, luật pháp đứng trên tất cả, kể cả ông lãnh đạo địa phương vì nếu con ông vi phạm, cũng sẽ bị trừng phạt như một người dân thường.

Phần ở trên là trích từ một bài tôi viết và đã đăng trên TBKTSG từ năm ngoái (nhưng không đưa lên blog). Tình huống tưởng như giả tưởng nói trên nay đang diễn ra dưới nhiều dạng khác nhau và sự suy xét đúng sai cũng không hề đơn giản như tôi từng lập luận. Điều đáng ngạc nhiên là, nói một cách ví von, trước những tình huống như thế, dường như đa số ý kiến muốn có lệnh cấm uống café quá hai tiếng ngay chứ không cần đợi có luật lệ gì cả. Chắc mọi người nhớ ngay đến những ví dụ thời sự trong mấy tuần gần đây (từ việc cấm chơi golf, phân biệt sinh viên dân lập đến việc thu hồi sách thành ngữ kiểu mới).

Sự đồng tình đó nói lên cái gì?

Thứ nhất, nó cho thấy hệ thống luật pháp ở nước ta hầu như đã mất tác dụng, người tôn trọng pháp luật một cách ngây thơ sẽ chịu thiệt thòi so với người lách luật. Người ta không còn tin vào sự công minh của pháp luật, sự tuân thủ luật lệ của giới có quyền hay có tiền. Chẳng hạn chuyện tuyển dụng công chức sẽ trở nên bình thường nếu việc thi tuyển thật sự công bằng, dựa vào năng lực của người dự tuyển, chứ không cần dựa vào loại trường tốt nghiệp. Nhưng thực tế đâu có như vậy, việc chạy chọt để kiếm một chân làm việc ở cơ quan nhà nước hầu như đã trở thành chuyện bình thường. Vì vậy, trong tâm lý con người, thôi thì nơi nào tạo dựng được sự công bằng tương đối nào đó cũng tốt hơn là không có, nơi nào tạo ra những rào cản để bớt kẻ chạy chọt cũng là chuyện đáng chấp nhận.

Thứ hai, người dân đang phẫn nộ trước những bất công trong xã hội và ai, điều gì giảm được chút bất công đó, dù bằng con đường không chính thống, đều đáng được hoan nghênh. Sự phẫn nộ của xã hội tạo ra những làn sóng dư luận và các quan chức, các cơ quan công quyền đôi lúc ứng xử dựa vào làn sóng dư luận này, chứ không hẳn dựa vào luật lệ. Người ta cố ý nhầm lẫn giữa nguyên tắc và sự việc cụ thể. Một số tờ báo cũng ứng xử theo cách đó.

Thứ ba, tình hình như thế là một điều đáng buồn chứ không có gì đáng “phấn khởi” cả. Như thể chúng ta tự đánh tụt hạng mình trên con đường xây dựng một xã hội văn minh. Chuyện truy bắt phù thủy chỉ xảy ra từ thời Trung Cổ và từ đó đến nay thế giới đã tiến những bước rất xa. Nếu đồng tình với cách ứng xử như thế, đồng nghĩa với một sự thụt lùi rất xa về nhận thức về một nhà nước pháp quyền, một sự chấp nhận giải quyết mọi việc dựa vào cảm tính và sức mạnh của đám đông.

Thứ tư, hậu quả của nó, nếu nhà nước không nhảy vào để giải quyết một cách dứt khoát chứ không phải là những phát biểu chung chung là rất lớn. Như con đường phát triển của hệ thống đại học ngoài công lập trong tương lai sẽ như thế nào đây khi xã hội, dưới sự “đầu têu” của một số cơ quan chính quyền, từ bỏ nó ngay trong trứng nước?

Thứ Năm, 27 tháng 10, 2011

Steve Jobs (2)

Steve Jobs (2)

Cuốn Steve Jobs của Walter Isaacson nhiều chi tiết quá. Chi tiết làm nên câu chuyện và chi tiết đắt sẽ tô đậm, khắc họa ấn tượng tác giả muốn tạo ra. Sách tràn đầy chi tiết giúp làm nổi bật tính cách cả tốt lẫn xấu của Steve Jobs nhưng những chi tiết khác dễ làm độc giả rơi vào một cánh rừng mà không thấy được toàn cảnh.

Tôi có cảm giác mặc dù tác giả đã phỏng vấn Steve Jobs hơn 40 cuộc trong suốt hai năm, cuốn sách vẫn miêu tả Steve Jobs từ bên ngoài. Có lẽ việc gặp hơn 100 người gồm bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, đối thủ của Jobs đã làm tác giả nghiêng nhiều hơn về cách nhìn từ bên ngoài vào. Chúng ta sẽ có cảm giác như đang đọc một bài báo thật dài về Steve Jobs hay đúng hơn là hàng trăm bài báo về Steve Jobs theo những chặng đường trên cuộc đời của ông. Tác giả không giúp cho người đọc thấy được vì sao Jobs hành động, quyết định hay ứng xử như Jobs từng ứng xử ngoại trừ một số đoạn nói về tác động tâm lý của một người con bị bố mẹ đẻ bỏ rơi.

Cuộc đời của Steve Jobs gắn liền với sự sôi động của nền công nghệ thông tin, sự thăng trầm của nhiều số phận, nhiều ý tưởng và sự biến đổi lối sống của tất cả mọi chúng ta dưới tác động của công nghệ thông tin. Nhưng cuốn sách, bị nhấn chìm dưới nhiều chi tiết, chẳng hạn những trang miêu tả dài dòng cách Steve Jobs cho ra mắt một sản phẩm nào đó, nên không phản ánh đầy đủ được sự sôi động này. Phần nói về sự ra đời của chiếc iPhone là một ngoại lệ.

Dĩ nhiên, chi tiết nào thuộc loại mới, lạ đều gây tò mò thích thú ở độc giả. Chẳng lạ gì báo chí Mỹ tràn ngập các tin trích những chi tiết ấy khi sách ra mắt chứ ít thấy những bài điểm sách như thông lệ.

Tuy nhiên, phần cuối sách, khi nói về bệnh tình Steve Jobs, ngòi bút tác giả lại vẽ lên những hình ảnh rất cảm động.

Chẳng hạn, gần cuối sách, tác giả kể một hôm Jobs gởi email mời Ann Bowers đến thăm. Bà từng là giám đốc nhân sự của Apple thời đầu thập niên 1980 và là một trong rất ít người kiềm chế được tính tình nóng nảy của Steve Jobs, là người duy nhất la mắng Jobs sau khi ông nguội cơn thịnh nộ. Lúc bà đến nhà Jobs, ông trở bệnh nặng, đang đau đớn nhưng vẫn hăm hở khoe bà bản vẽ trụ sở mà Apple sẽ xây dựng, như một con tàu vũ trụ – một công trình vĩ đại theo kiểu của ông. Thế rồi ông nhìn bà và hỏi, một câu hỏi suýt làm bà sụm xuống: “Nói cho tôi biết, tôi là con người như thế nào khi còn trẻ?” Bà cố gắng trả lời thành thật: “Cậu thật nóng nảy và thật khó khăn. Nhưng tầm nhìn của cậu thật sự lôi cuốn. Cậu bảo chúng tôi, ‘Cuộc hành trình chính là phần thưởng’. Điều đó hóa ra lại đúng. Jobs trả lời: “Vâng. Tôi học được vài điều trên con đường đó.” Một ít phút sau, ông nhắc lại như thể trấn an bà và cả chính ông: “Tôi thật sự học được vài điều.”

….

Thứ Tư, 26 tháng 10, 2011

Chuyện giàu nghèo – chưa có lối ra

Chuyện giàu nghèo – chưa có lối ra

Biểu tình phản kháng luôn luôn là cách thức để lôi kéo sự chú ý của công chúng vào một vấn đề gì đó và tìm kiếm sự ủng hộ cho những giải pháp đưa ra. Phong trào “Chiếm lấy phố Wall” làm được điều thứ nhất nhưng thất bại ở điều thứ hai.

Đến nay ai cũng biết “Chiếm phố Wall” là một cách nói, một cách hành động để biểu lộ sự bất mãn sâu sắc tình trạng phân hóa giàu nghèo, giữa 1% dân số giàu nhất và 99% số người còn lại. Theo nhà kinh tế đoạt giải Nobel Joseph Stiglitz trong một bài báo mang tựa đề “Của 1%, Do 1%, Vì 1%”, một phần trăm dân số giàu nhất nước Mỹ đang sở hữu đến 40% tài sản nước này. Tệ hại hơn, người giàu ngày càng giàu hơn và dĩ nhiên khi tổng thu nhập quốc dân thay đổi không đáng kể thì người nghèo buộc phải càng nghèo đi. Năm 1980, 1% người giàu nhất chiếm 9% có tổng thu nhập nước Mỹ thì đến năm 2006, họ chiếm gần đến 19%.

Phong trào “Chiếm phố Wall” lan ra khắp thế giới, chứng tỏ chuyện phân hóa giàu nghèo không chỉ giới hạn vào nước Mỹ và sự bất mãn của người dân không chỉ tập trung vào phố Wall.

Sự phẫn nộ của người dân có lẽ bùng phát từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2008, lúc hàng ngàn tỷ tiền đóng thuế của người dân được tung ra để cứu lấy hệ thống ngân hàng và các tập đoàn tài chính. Những tưởng sau đó, kinh tế phục hồi, mọi chuyện đâu vào đó nhưng nước Mỹ và nhiều nước khác vẫn đang đối diện nạn thất nghiệp cao ngất, kinh tế vẫn đình trệ và giới ngân hàng vẫn tự thưởng cho mình hàng chục triệu đô-la mỗi người. Thử hỏi không ai không bất mãn trước tình thế đó.

Nhưng vấn đề là làm gì để giải quyết nạn bất bình đẳng trong thu nhập thì không ai có thể đưa ra câu trả lời hoàn hảo. Lấy ví dụ chuyện trả thu nhập cho giới đứng đầu các tập đoàn tài chính. Chính các khoản lương thưởng cao ngất cho một số ít người đứng đầu là động lực thúc đẩy sự hoạt động với hiệu quả cao nhất của các tập đoàn này, là thanh nam châm thu hút người tài vào khu vực này và là củ cà rốt đòi hỏi mọi người ganh đua nhau làm việc tận lực với hy vọng ngày nào đó họ sẽ đến đích, bỏ túi được những khoản thưởng hậu hĩ. Nếu bỏ cơ chế trả lương thưởng cao trong nền kinh tế thị trường, chúng ta xóa đi một động lực rất lớn và trong bối cảnh kinh tế ngày càng tệ hại, không ai dám và không ai muốn làm chuyện đó cả.

Tuần trước báo chí mới tiết lộ Steve Jobs, nhà doanh nhân huyền thoại vừa mới qua đời, khi gặp Tổng thống Obama vào năm ngoái, đã tiên đoán thẳng, Obama sẽ chỉ là tổng thống một nhiệm kỳ. Đó là bởi Jobs phản đối những biện pháp kiểm soát thị trường mà Obama đang cố gắng áp dụng. Một con người từng được xem là cấp tiến như Stev Jobs mà khi quyền lợi doanh nghiệp bị đe dọa vẫn lên tiếng phản ứng thì làm sao các chính trị gia, những người phụ thuộc rất nhiều vào nguồn quỹ vận động từ doanh nghiệp, dám áp dụng biện pháp gì để xóa bớt sự bất bình đẳng trong thu nhập.

Thật ra thủ phạm sâu xa của hố sâu giàu nghèo ở các nước chính là lòng tham của giới tài phiệt lợi dụng quá trình toàn cầu hóa diễn ra trong những thập niên qua. Thoạt tiên, toàn cầu hóa được xem là con đường tối ưu hóa sản xuất trên bình diện toàn cầu, là sự phân công lại nguồn lực lao động và sự phân bổ vai trò cho các nước. Các khâu sản xuất cần nhiều công nhân được chuyển dần sang các nước nghèo; nước giàu chỉ còn giữ các khâu dịch vụ, được định giá cao hơn nhiều lần. Nhìn ở góc độ tích cực, toàn cầu hóa đã nâng cao mức sống của hàng trăm triệu con người ở những nước đang phát triển nhưng ngược lại, nhìn từ các nước phương Tây, hàng loạt ngành công nghiệp lần lượt bị dẹp bỏ, công nhân thất nghiệp tràn lan, nhiều thành phố công nghiệp bị bỏ hoang, nhiều kỹ năng biến mất. Và dĩ nhiên trong quá trình chuyển biến này, giới tư bản hưởng lợi nhiều nhất vì đã tối đa hóa được lợi nhuận, bất kể biên giới địa lý.

Để có thể dễ hình dung, chúng ta cứ tưởng tượng toàn trái đất này là một ngôi làng, mọi người được quyền di chuyển dễ dàng để sống ở bất kỳ nơi đâu như trong một câu chuyện khoa học viễn tưởng. Toàn cầu hóa như vừa qua ắt, trên lý thuyết, sẽ dẫn đến chỗ nhiều công nhân các nước giàu sẽ phải di cư sang những nước nghèo để kiếm việc làm thích hợp với họ và chịu một mức sống giảm sút. Nhưng chính ở những nước nghèo, toàn cầu hóa cũng làm trình trạng chênh lệch giàu nghèo nhanh chóng nảy sinh; những người thợ luôn phải chịu đồng lương thấp còn giới chủ vẫn hưởng thu nhập trên trời. Những năm trước khủng hoảng, tình trạng bất bình đẳng còn chịu đựng được vì phương Tây định giá trị các khâu dịch vụ trong chuỗi sản xuất toàn cầu rất cao. Chúng ta đều biết giá trị gia công giày Nike hay quần áo thời trang rất thấp so với giá bán cao ngất của chúng vì đa phần chạy vào chi phí thiết kế, quảng cáo, tiếp thị… Nhưng dần dần phương Tây mới hiểu ra năng suất trong dịch vụ không thể tăng bằng tốc độ tăng của sản xuất – chênh lệch này vì cạnh tranh sẽ giảm và cuối cùng thu nhập, định đoạn bởi năng suất sau cùng, giảm trên chung cuộc.

Ai cũng muốn nền kinh tế nước mình đi vào công nghệ cao, làm chuyện to lớn chứ không mắc kẹt vào dây chuyền sản xuất cổ lỗ. Nhưng nếu nhìn vào sự phát triển của nước Mỹ trong những năm qua chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy một bức tranh méo mó. Theo số liệu của tờ Economist, tổng cộng các hãng danh tiếng nhất nước Mỹ hiện nay gồm Apple, Google, Facebook và Amazon chỉ có 113.000 nhân viên, bằng một phần ba lượng nhân viên của hãng GM vào năm 1980. Người Mỹ thường đem những tên tuổi này ra để trấn an mọi người rằng nước Mỹ hiện vẫn dẫn đầu trong thế giới kinh doanh, với những sáng kiến làm ăn không ai vượt qua, với những sản phẩm cả thế giới phải trầm trồ. Sự thật là giá trị các hãng này đem lại cho nước Mỹ không lớn như các đại gia thời trước như GM, Ford, Caterpillar, General Electric hay Kodak. Họ không tạo ra sự thịnh vượng cho cả một cộng đồng mà chỉ đem lại tiền tỷ cho một số ít người đứng đầu các tập đoàn này.

Thế nhưng, cả thế giới đã lậm sâu vào con đường phân công theo mô hình toàn cầu hóa, không thể một sớm một chiều mà thay đổi gì được. Đó là lý do vì sao Phong trào “Chiếm Phố Wall” cho đến nay vẫn chưa đưa ra được một giải pháp gì cho sự phản kháng của họ.

Bài đăng phổ biến