Buông nhiệm vụ quản lý
Nguyễn Vạn Phú
Diễn tiến trong thời gian gần đây buộc chúng ta phải đặt câu hỏi liệu một số bộ, ngành trong bộ máy nhà nước có đang buông nhiệm vụ quản lý của mình.
Dễ thấy nhất là chuyện lãi suất. Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị vào ngày 7-4 “trước mắt, không duy trì lãi suất huy động trần”. Thế nhưng từ đó đến nay, Ngân hàng Nhà nước, nơi chịu trách nhiệm về chính sách lãi suất lại không có một động tĩnh gì, từ việc xác định Công điện 02 ấn định trần lãi suất 12% có còn hiệu lực không đến việc giải thích cho khối ngân hàng cũng như cho người dân định hướng lãi suất sắp tới như thế nào. Trong thông báo gởi cho báo chí ngày 18-4, Ngân hàng Nhà nước không dành một dòng nào để nói về băn khoăn lãi suất trần của nhiều ngân hàng đã lên tiếng trước đó. Ở đây có hai vấn đề: về quản lý nhà nước, lẽ ra Ngân hàng Nhà nước phải linh hoạt sử dụng công cụ lãi suất để điều hành thị trường tiền tệ nhưng lại nhường vai trò này cho một thỏa thuận không mang tính pháp lý của Hiệp hội Ngân hàng. Về mặt công luận, lẽ ra Ngân hàng Nhà nước phải phân tích cho người dân thấy lãi suất ở các ngân hàng với quy mô khác nhau, uy tín cũng như bề dày khác nhau thì sẽ khác nhau. Người nào ngại rủi ro sẽ gởi tiền vào ngân hàng lớn, đang chào lãi suất vừa phải; người nào thích mạo hiểm cứ nhắm đến các ngân hàng nhỏ, mới ra đời để hưởng lãi suất cao, kèm theo là mức rủi ro cao hơn. Có như thế mới hình thành một thị trường lành mạnh, có cạnh tranh để nâng cao năng lực, chứ không lẽ như hiện nay ngân hàng nào cũng như nhau. Vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước ở đây chính là sự phân loại các ngân hàng, là buộc họ cung cấp thông tin công khai cho người gởi tiền biết và cân nhắc chọn lựa. Một sự im lặng từ Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt từ người đứng đầu, chính là biểu hiện của sự buông quản lý.
Một bộ khác cũng lơ là hay hiểu sai nhiệm vụ quản lý của mình khá rõ nét là Bộ Y tế. Với bệnh tả, thay vì tập trung vào các biện pháp phòng chống đã trở thành kinh điển trên khắp thế giới, các cơ quan trực thuộc Bộ cứ thỉnh thoảng tung ra các tin “giật gân” không đâu vào đâu, như tin tiền giấy nhiễm vi khuẩn!!! Nhiệm vụ của Bộ Y tế lúc này là phải nhanh chóng in hàng triệu tờ rơi, tuyên truyền hướng dẫn cho người dân những biện pháp vệ sinh phòng dịch đơn giản như rửa tay trước khi ăn, uống nước đã đun sôi… Lâu dài hơn là một chiến dịch vận động người dân xây nhà vệ sinh đúng tiêu chuẩn, làm sạch nguồn nước. Hoạt động của Bộ như thế nào trong nhiều năm qua để đến nay Bộ mới phát hiện rất nhiều cộng đồng dân cư không xây nhà vệ sinh và các quan chức của Bộ chỉ biết bày tỏ sự ngạc nhiên một cách rất vô tâm.
Một chuyện đơn giản là gọi tên cho đúng “tiêu chảy cấp” hay “bệnh tả”, Bộ cũng không giải quyết rốt ráo để Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương đề nghị nên gọi “bệnh tả” thay vì “tiêu chảy cấp nguy hiểm”, còn Thứ trưởng Bộ Y tế thì cứ khăng khăng giải thích theo cách của mình. Riêng Cục trưởng Cục Y tế dự phòng và môi trường lại nói chưa công bố dịch vì chưa có quy định! Ở đây phải thấy một điều, chúng ta đang cố gắng bảo vệ sức khỏe của người dân hay cố gắng làm nhẹ tình hình vì du lịch, vì uy tín? Không lẽ tính mạng người dân không quan trọng bằng sự thu hút khách du lịch hay sao? Và trong giai đoạn vừa qua, hoàn toàn không thấy phát biểu, giải thích, hướng dẫn gì cả từ người đứng đầu Bộ.
Một ví dụ khác về chuyện quản lý nhà nước. Năm ngoái Bộ Kế hoạch Đầu tư báo cáo tổng vốn FDI đăng ký là 20,3 tỷ đô-la, giải ngân được 4,6 tỷ đô-la. Nay Bộ này cho biết con số chính xác là 21,3 tỷ đô-la (vốn đăng ký) và trên 8 tỷ đô-la (vốn thực hiện). Chênh lệch của con số vốn đăng ký không đáng kể, có thể tính vào sai sót thống kê nhưng con số vốn giải ngân từ 4,6 tỷ đô-la lên trên 8 tỷ đô-la là một sai số lớn, không thể chấp nhận được. Nếu nhìn vào cán cân thanh toán của Việt Nam trong năm 2007 (xem thêm mục Sự kiện & Vấn đề, TBKTSG số 17-2008), số vốn FDI thực hiện cao, có nghĩa thâm hụt thương mại hoặc dự trữ ngoại tệ phải cao hơn thực tế nhiều. Con số giải ngân vốn FDI năm 2006 là 4,1 tỷ đô-la – nếu năm ngoái con số này lên trên 8 tỷ đô-la, kéo theo biết bao nhiêu mức tăng gấp đôi như thế, cả về số lao động tuyển dụng, lượng điện tiêu thụ, nguyên vật liệu, nhập khẩu máy móc, nhu cầu văn phòng, đất đai… Bộ lại không có một lời giải thích ngoài một dòng điều chỉnh trong báo cáo. Ở đây cũng có hai vấn đề: một là độ chính xác của các con số; còn nếu chúng là chính xác thì sự yếu kém trong công tác quản lý vốn đầu tư nước ngoài của Bộ từ khi phân cấp cho địa phương. Năm rồi đã xảy ra việc điều chỉnh số liệu như thế ở nhiều ngành, từ ngân hàng cho đến tài chính và ngay là đầu tư. Thiếu số liệu chính xác, làm sao trông chờ chính sách đúng đắn vì chúng sẽ chênh với thực tế ngay.
Một hiện tượng khác cũng không thấy Bộ Kế hoạch & Đầu tư lên tiếng là chuyện hàng loạt dự án tiền tỷ đô-la nghe rất hoành tráng nhưng thực chất là loại dự án xây sòng bạc casino ở nhiều địa phương – từ Đà Nẵng đến Vũng Tàu hay Phú Quốc. Bộ đã có nghiên cứu gì chưa về lợi hại của việc mở casino ở Việt Nam, vì sao các dự án này lại lên đến nhiều tỷ, có chăng tình trạng dành đất làm địa ốc bên cạnh chuyện xây sòng bạc? Không khéo dòng vốn FDI lại rơi vào tình trạng đăng ký để xí chỗ như những năm giữa thập niên 1990.
Trong văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ ngày 7-4 có hàng loạt công việc yêu cầu các bộ, ngành thực hiện và báo cáo trước ngày 15-4, như giải pháp kiểm soát luồng vốn ngắn hạn, điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng, xây dựng tiêu chí phân loại dự án đầu tư công để loại các dự án không hiệu quả, tiêu chí thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, phương án giảm nhập siêu… Ngày 15-4 đã trôi qua, không biết bao nhiêu trong số đầu việc trên đã được thực hiện. Có lẽ Văn phòng Chính phủ, nơi truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nên công bố cho mọi người cùng biết để góp thêm sức ép dư luận lên hoạt động của các bộ ngành trong bộ máy nhà nước. Và cuối cùng để nơi nào vẫn còn buông trách nhiệm quản lý như trong thời gian vừa qua, người dân, thông qua đại biểu Quốc hội của mình có thể yêu cầu bãi miễn ngay trong khóa họp sắp tới.
Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2008
Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2008
Tai ve va in ra
Tải về và in ra
Nguyễn Vạn Phú
Mùa tuyển sinh đại học năm nay lại rộn lên chuyện Sở Giáo dục-Đào tạo TPHCM không nhận những hồ sơ họ cho là giả. Ở đây có hai vấn đề cần phân biệt. Chuyện Sở Giáo dục-Đào tạo TPHCM không chịu tiếp nhận loại hồ sơ không phải do họ phát hành nhưng có đóng khuôn dấu (giả) của Sở là hoàn toàn chính đáng. Không lẽ buộc sở phải nhận những hồ sơ in chình ình khuôn dấu của mình một cách trái phép?
Vấn đề thứ nhì, rộng hơn, là trong thời đại công nghệ thông tin đã khá phổ biến như hiện nay, có nhất thiết phải tốn công sức, tốn thời gian, in ấn bộ hồ sơ thi đại học không. Tại sao Bộ Giáo dục & Đào tạo, sau khi soạn mẫu hồ sơ thi đại học của năm đó, không chuyển nó thành tập tin dạng .pdf và cho tải lên mạng, không những trên trang web của Bộ mà cho cho phép bất kỳ website nào của các trường đại học, trường phổ thông, các sở địa phương để bất kỳ thí sinh nào cũng có thể tải về máy, in ra và điền hồ sơ một cách nhanh chóng, đơn giản. Làm được chuyện rất đơn giản này, có lẽ Bộ đã tiết kiệm cho xã hội khá nhiều tiền, không chỉ tiền mua hồ sơ mà còn tiền phụ huynh hay thí sinh phải cất công đi mua cho ra bộ hồ sơ “chính thức”.
Hiện nay, ngoài hồ sơ tuyển sinh đại học, còn có hàng loạt hồ sơ khác, không thể liệt kê ra hết ở đây. Và việc tin học hóa ngành giáo dục phải bắt đầu từ những chuyện đơn giản như vậy: bất kỳ hồ sơ nào có thể chuyển ra dạng .pdf, tải lên mạng để người cần sử dụng có thể tải về và in ra, cần được thực hiện ngay để tạo thuận tiện cho người dân. Đây là chuyện dễ làm và hầu như ở nước nào cũng đã thực hiện, tại sao ngành giáo dục nước ta còn chần chờ. Cứ thử vào bất kỳ trường đại học nào ở Mỹ, Anh, Úc, chúng ta đều thấy họ dành riêng một phần để giới thiệu các mẫu hồ sơ có thể tải về sử dụng. Dĩ nhiên, với những học sinh không có điều kiện vào mạng hay in ấn, vẫn có thể mua hồ sơ bằng giấy trực tiếp.
Còn nhìn xa hơn một chút nữa, tại sao công tác tiếp nhận hồ sơ tuyển sinh không được thực hiện qua mạng, ít nhất cho những học sinh ở các thành phố. Giai đoạn đầu có thể tồn tại song song hai dạng nộp hồ sơ: qua mạng và nộp trực tiếp. Đến một lúc nào đó, vì lý do thuận tiện, hạn chế sai sót, được phản hồi là đã nhận hồ sơ… thí sinh ắt sẽ chọn cách nộp qua mạng. Hồ sơ nộp qua mạng sẽ tránh được những sai sót mà hầu như năm nào cũng xảy ra – vì có thể đặt yêu cầu cho phần mềm không chấp nhận những thông tin điền sai. Các trường tiếp nhận hồ sơ dạng này cũng khỏi phải gõ lại vào máy tính, có thể nhanh chóng lập bảng biểu thống kê, thông báo cho nhau thông tin cần chia sẻ… Khó khăn lớn nhất của việc nộp hồ sơ qua mạng là hạ tầng của Việt Nam chưa thể chấp nhận việc trả lệ phí tuyển sinh qua mạng một cách thông suốt và an toàn và trông chờ đại đa số thí sinh có phương tiện trả tiền qua mạng là điều không tưởng. Nếu vậy, việc nộp lệ phí tuyển sinh cứ tách ra và nộp trực tiếp như hiện nay, ít nhất trong vài năm tới.
Trang web Common Application của Mỹ là một mô hình nộp hồ sơ tuyển sinh đại học qua mạng đáng tham khảo. Hiện nay Common Application có hàng trăm đại học ở Mỹ tham gia; thí sinh nào đã điền xong hồ sơ trên mạng của Common Application, chỉ cần chọn trường và bấm nút, ngay lập tức hồ sơ của họ sẽ được chuyển đến những trường họ chọn. Vì thí sinh chỉ cần điền một lần nhưng có thể nộp cho nhiều trường nên hình thức hồ sơ Common Application ngày càng được ưa chuộng, hằng năm có khoảng 2 triệu hồ sơ dạng này. Có nhiều trường đã bỏ hẳn hồ sơ riêng của mình để yêu cầu thí sinh phải nộp hồ sơ dạng Common Application. Thí sinh nào không thích nộp qua mạng vẫn có thể dùng mẫu trực tuyến để điền và in ra rồi nộp qua đường bưu điện.
Nhìn rộng thêm một chút nữa, công tác cải cách hành chính cũng nên chú ý đến việc sử dụng Internet làm công cụ để người dân có thể tiếp cận các dịch vụ công dễ dàng hơn nữa. Điều đáng mừng là nhiều cơ quan đã ứng dụng Internet vào việc phục vụ người dân, như Cục Quản lý xuất nhập cảnh trong việc đưa các biểu mẫu lên mạng. Đáng tiếc là cơ quan này lại dùng định dạng .html nên khi in có thể không đúng kích cỡ, các dòng chữ có thể chạy sai chỗ. Định dạng .doc lại dùng font TCVN3 trong khi Chính phủ đã yêu cầu mọi văn bản nhà nước phải dùng font Unicode từ lâu. Một file theo định dạng .pdf đã khóa chức năng biên tập, sửa đổi, chỉ cho in không thôi sẽ là phương án tối ưu. Nếu điều chỉnh những điểm nhỏ này, Cục sẽ là một trong những nơi đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin trong quan hệ với công dân, sẽ tiết kiệm cho người dân rất nhiều công sức, ít ra cũng là một lần đến Cục để mua biểu mẫu.
Nguyễn Vạn Phú
Mùa tuyển sinh đại học năm nay lại rộn lên chuyện Sở Giáo dục-Đào tạo TPHCM không nhận những hồ sơ họ cho là giả. Ở đây có hai vấn đề cần phân biệt. Chuyện Sở Giáo dục-Đào tạo TPHCM không chịu tiếp nhận loại hồ sơ không phải do họ phát hành nhưng có đóng khuôn dấu (giả) của Sở là hoàn toàn chính đáng. Không lẽ buộc sở phải nhận những hồ sơ in chình ình khuôn dấu của mình một cách trái phép?
Vấn đề thứ nhì, rộng hơn, là trong thời đại công nghệ thông tin đã khá phổ biến như hiện nay, có nhất thiết phải tốn công sức, tốn thời gian, in ấn bộ hồ sơ thi đại học không. Tại sao Bộ Giáo dục & Đào tạo, sau khi soạn mẫu hồ sơ thi đại học của năm đó, không chuyển nó thành tập tin dạng .pdf và cho tải lên mạng, không những trên trang web của Bộ mà cho cho phép bất kỳ website nào của các trường đại học, trường phổ thông, các sở địa phương để bất kỳ thí sinh nào cũng có thể tải về máy, in ra và điền hồ sơ một cách nhanh chóng, đơn giản. Làm được chuyện rất đơn giản này, có lẽ Bộ đã tiết kiệm cho xã hội khá nhiều tiền, không chỉ tiền mua hồ sơ mà còn tiền phụ huynh hay thí sinh phải cất công đi mua cho ra bộ hồ sơ “chính thức”.
Hiện nay, ngoài hồ sơ tuyển sinh đại học, còn có hàng loạt hồ sơ khác, không thể liệt kê ra hết ở đây. Và việc tin học hóa ngành giáo dục phải bắt đầu từ những chuyện đơn giản như vậy: bất kỳ hồ sơ nào có thể chuyển ra dạng .pdf, tải lên mạng để người cần sử dụng có thể tải về và in ra, cần được thực hiện ngay để tạo thuận tiện cho người dân. Đây là chuyện dễ làm và hầu như ở nước nào cũng đã thực hiện, tại sao ngành giáo dục nước ta còn chần chờ. Cứ thử vào bất kỳ trường đại học nào ở Mỹ, Anh, Úc, chúng ta đều thấy họ dành riêng một phần để giới thiệu các mẫu hồ sơ có thể tải về sử dụng. Dĩ nhiên, với những học sinh không có điều kiện vào mạng hay in ấn, vẫn có thể mua hồ sơ bằng giấy trực tiếp.
Còn nhìn xa hơn một chút nữa, tại sao công tác tiếp nhận hồ sơ tuyển sinh không được thực hiện qua mạng, ít nhất cho những học sinh ở các thành phố. Giai đoạn đầu có thể tồn tại song song hai dạng nộp hồ sơ: qua mạng và nộp trực tiếp. Đến một lúc nào đó, vì lý do thuận tiện, hạn chế sai sót, được phản hồi là đã nhận hồ sơ… thí sinh ắt sẽ chọn cách nộp qua mạng. Hồ sơ nộp qua mạng sẽ tránh được những sai sót mà hầu như năm nào cũng xảy ra – vì có thể đặt yêu cầu cho phần mềm không chấp nhận những thông tin điền sai. Các trường tiếp nhận hồ sơ dạng này cũng khỏi phải gõ lại vào máy tính, có thể nhanh chóng lập bảng biểu thống kê, thông báo cho nhau thông tin cần chia sẻ… Khó khăn lớn nhất của việc nộp hồ sơ qua mạng là hạ tầng của Việt Nam chưa thể chấp nhận việc trả lệ phí tuyển sinh qua mạng một cách thông suốt và an toàn và trông chờ đại đa số thí sinh có phương tiện trả tiền qua mạng là điều không tưởng. Nếu vậy, việc nộp lệ phí tuyển sinh cứ tách ra và nộp trực tiếp như hiện nay, ít nhất trong vài năm tới.
Trang web Common Application của Mỹ là một mô hình nộp hồ sơ tuyển sinh đại học qua mạng đáng tham khảo. Hiện nay Common Application có hàng trăm đại học ở Mỹ tham gia; thí sinh nào đã điền xong hồ sơ trên mạng của Common Application, chỉ cần chọn trường và bấm nút, ngay lập tức hồ sơ của họ sẽ được chuyển đến những trường họ chọn. Vì thí sinh chỉ cần điền một lần nhưng có thể nộp cho nhiều trường nên hình thức hồ sơ Common Application ngày càng được ưa chuộng, hằng năm có khoảng 2 triệu hồ sơ dạng này. Có nhiều trường đã bỏ hẳn hồ sơ riêng của mình để yêu cầu thí sinh phải nộp hồ sơ dạng Common Application. Thí sinh nào không thích nộp qua mạng vẫn có thể dùng mẫu trực tuyến để điền và in ra rồi nộp qua đường bưu điện.
Nhìn rộng thêm một chút nữa, công tác cải cách hành chính cũng nên chú ý đến việc sử dụng Internet làm công cụ để người dân có thể tiếp cận các dịch vụ công dễ dàng hơn nữa. Điều đáng mừng là nhiều cơ quan đã ứng dụng Internet vào việc phục vụ người dân, như Cục Quản lý xuất nhập cảnh trong việc đưa các biểu mẫu lên mạng. Đáng tiếc là cơ quan này lại dùng định dạng .html nên khi in có thể không đúng kích cỡ, các dòng chữ có thể chạy sai chỗ. Định dạng .doc lại dùng font TCVN3 trong khi Chính phủ đã yêu cầu mọi văn bản nhà nước phải dùng font Unicode từ lâu. Một file theo định dạng .pdf đã khóa chức năng biên tập, sửa đổi, chỉ cho in không thôi sẽ là phương án tối ưu. Nếu điều chỉnh những điểm nhỏ này, Cục sẽ là một trong những nơi đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin trong quan hệ với công dân, sẽ tiết kiệm cho người dân rất nhiều công sức, ít ra cũng là một lần đến Cục để mua biểu mẫu.
Thứ Tư, 16 tháng 4, 2008
My Chau
Mỵ Châu ngồi sau lưng đấy!
Nguyễn Vạn Phú
Tạm thời gác sang một bên việc có nên tham gia vào cuộc bầu chọn Hạ Long làm một trong bảy kỳ quan thiên nhiên của thế giới không, cách các báo đưa tin chuyện Vịnh Hạ Long bị loại khỏi danh sách bầu chọn cho thấy cánh nhà báo chưa sòng phẳng cho lắm.
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 16/4 đưa tin: “Chiều 14-4, ban tổ chức cuộc bình chọn bảy kỳ quan thiên nhiên mới New7Wonders (N7W) đã tạm thời loại vịnh Hạ Long khỏi danh sách bầu chọn vì lỗi vi phạm của một số trang web tại Việt Nam”. Báo cũng cho biết: “hai trang web ở Việt Nam vi phạm một số trong các lỗi: sử dụng logo, hình ảnh của N7W, sao chép nội dung và qui trình bầu chọn từ trang web N7W”.
Đọc đến đây có lẽ mọi người thầm trách trang web nào chơi ẩu quá, dù vô tình hay cố ý, cũng đã làm hại đến uy tín Vịnh Hạ Long. Báo Tuổi Trẻ và hầu hết các báo khác khi đưa tin này không nói rõ đó là những trang web nào. Ít ai biết trang web đầu tiên được N7W nêu tên là http://halong.tuoitre.com.vn/Tianyon/ của chính báo Tuổi Trẻ!
Phải nói ngay chuyện báo Tuổi Trẻ dành riêng một phần trong website của mình để vận động bình chọn cho Vịnh Hạ Long và các thắng cảnh khác của Việt Nam là việc làm vô vụ lợi, ít ra cũng có tác dụng giúp người trong nước biết thêm về các danh thắng của đất nước. Và cũng có thể người viết tin trên không biết báo mình có trang web bị “điểm mặt”.
Chuyện N7W có quyền gạt tên Vịnh Hạ Long ra vì các trang web không liên quan đến ban vận động chính thức hay không cũng đáng lưu ý. Không lẽ bây giờ bất kỳ ai trong số hàng triệu trang web ở Việt Nam lấy logo, hình ảnh của N7W là họ cứ thế gạch tên các danh thắng của Việt Nam ra?
Và trên hết, chuyện bầu chọn của N7W có đáng để cho chúng ta bỏ công sức như trong mấy tháng qua hay không cũng là một vấn đề đáng bàn. Trước đây là có khá nhiều ý kiến không tán đồng cách làm không chuyên nghiệp của N7W, cách bầu chọn mang tính phong trào, khả năng dùng kỹ thuật tin học để “bầu chọn tự động”… Nay việc N7W đòi trang web nào muốn dùng hình ảnh, lô-gô của họ phải trả cho họ 5.000 đô-la Mỹ/tháng cho thấy việc bầu chọn này đâu phải hoàn toàn vô vụ lợi gì. Ngay cả tên trang web bầu chọn có đuôi là .com cũng cho thấy tính thương mại của nó.
Trở lại góc độ đưa tin, Sài Gòn Giải phóng là một trong những tờ báo hiếm hoi có đưa địa chỉ các trang web bị cho là vi phạm. Khổ nổi báo này cũng đưa sai. Địa chỉ website thứ 3 mà Sài Gòn Giải phóng liệt kê theo N7W là: http://www.thanhniennews.com/travel/?catid=7&newsid=37451.
Thoạt đầu người viết tưởng báo Thanh Niên (ấn bản tiếng Anh) cũng rơi vào tình huống tương tự như báo Tuổi Trẻ. Trên số báo ra ngày 16-4, Thanh Niên cũng đưa tin như các báo khác và còn trích nguồn Thông tấn xã Việt Nam: “Ngoài ra ủy ban nói trên (tức Ủy ban Hỗ trợ chính thức cho việc bầu chọn vịnh Hạ Long của Việt Nam) cũng gửi công văn đề nghị Bộ Thông tin - Truyền thông cùng phối hợp để đưa ra những định hướng tuyên truyền và biện pháp xử lý vi phạm của các trang web nhằm sớm đưa vịnh Hạ Long trở lại với danh sách bầu chọn”.
Không lẽ báo này vi phạm mà còn đưa tin về chuyện xử lý vi phạm? Hóa ra không phải, yêu cầu của N7W là chuyện Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), một doanh nghiệp, không được tham gia vận động bầu chọn mà không được phép của họ (hay nói cách khác chưa trả phí cho họ!). Bằng cớ họ nêu ra để “hù dọa” EVN là bản tin đăng trên tờ Thanh Niên (ấn bản tiếng Anh) có địa chỉ nêu trên đưa tin về EVN và chuyện vận động bầu chọn. Chuyện rõ ràng như thế, không biết sao chính Ban vận động tuyên truyền bầu chọn Vịnh Hạ Long, trong công văn gởi Bộ Thông tin-Truyền thông cũng liệt kê nguyên địa chỉ website của tờ Thanh Niên như thể họ vi phạm. Và Thanh Niên cũng đã nhanh nhẩu gỡ bỏ nội dung này trên website của mình.
Cuộc bầu chọn của N7W là một sáng kiến kinh doanh của họ (có thu tiền từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là quảng cáo trên một website có rất nhiều người truy cập). Hiệu ứng đến đâu chưa thể nói được. Ví dụ, đến giờ còn ai nhớ bảy kỳ quan thế giới mới mà nơi này bầu chọn vào tháng 7 năm ngoái không? Chúng ta tham gia cũng tốt vì đây là dịp để quảng bá hình ảnh một số thắng cảnh của Việt Nam nhưng có lẽ không nên quan trọng hóa nó quá, không nên mất thì giờ vì nó quá và chắc chắn không nên biến nó thành chuyện mang tầm cỡ quốc gia.
Nguyễn Vạn Phú
Tạm thời gác sang một bên việc có nên tham gia vào cuộc bầu chọn Hạ Long làm một trong bảy kỳ quan thiên nhiên của thế giới không, cách các báo đưa tin chuyện Vịnh Hạ Long bị loại khỏi danh sách bầu chọn cho thấy cánh nhà báo chưa sòng phẳng cho lắm.
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 16/4 đưa tin: “Chiều 14-4, ban tổ chức cuộc bình chọn bảy kỳ quan thiên nhiên mới New7Wonders (N7W) đã tạm thời loại vịnh Hạ Long khỏi danh sách bầu chọn vì lỗi vi phạm của một số trang web tại Việt Nam”. Báo cũng cho biết: “hai trang web ở Việt Nam vi phạm một số trong các lỗi: sử dụng logo, hình ảnh của N7W, sao chép nội dung và qui trình bầu chọn từ trang web N7W”.
Đọc đến đây có lẽ mọi người thầm trách trang web nào chơi ẩu quá, dù vô tình hay cố ý, cũng đã làm hại đến uy tín Vịnh Hạ Long. Báo Tuổi Trẻ và hầu hết các báo khác khi đưa tin này không nói rõ đó là những trang web nào. Ít ai biết trang web đầu tiên được N7W nêu tên là http://halong.tuoitre.com.vn/Tianyon/ của chính báo Tuổi Trẻ!
Phải nói ngay chuyện báo Tuổi Trẻ dành riêng một phần trong website của mình để vận động bình chọn cho Vịnh Hạ Long và các thắng cảnh khác của Việt Nam là việc làm vô vụ lợi, ít ra cũng có tác dụng giúp người trong nước biết thêm về các danh thắng của đất nước. Và cũng có thể người viết tin trên không biết báo mình có trang web bị “điểm mặt”.
Chuyện N7W có quyền gạt tên Vịnh Hạ Long ra vì các trang web không liên quan đến ban vận động chính thức hay không cũng đáng lưu ý. Không lẽ bây giờ bất kỳ ai trong số hàng triệu trang web ở Việt Nam lấy logo, hình ảnh của N7W là họ cứ thế gạch tên các danh thắng của Việt Nam ra?
Và trên hết, chuyện bầu chọn của N7W có đáng để cho chúng ta bỏ công sức như trong mấy tháng qua hay không cũng là một vấn đề đáng bàn. Trước đây là có khá nhiều ý kiến không tán đồng cách làm không chuyên nghiệp của N7W, cách bầu chọn mang tính phong trào, khả năng dùng kỹ thuật tin học để “bầu chọn tự động”… Nay việc N7W đòi trang web nào muốn dùng hình ảnh, lô-gô của họ phải trả cho họ 5.000 đô-la Mỹ/tháng cho thấy việc bầu chọn này đâu phải hoàn toàn vô vụ lợi gì. Ngay cả tên trang web bầu chọn có đuôi là .com cũng cho thấy tính thương mại của nó.
Trở lại góc độ đưa tin, Sài Gòn Giải phóng là một trong những tờ báo hiếm hoi có đưa địa chỉ các trang web bị cho là vi phạm. Khổ nổi báo này cũng đưa sai. Địa chỉ website thứ 3 mà Sài Gòn Giải phóng liệt kê theo N7W là: http://www.thanhniennews.com/travel/?catid=7&newsid=37451.
Thoạt đầu người viết tưởng báo Thanh Niên (ấn bản tiếng Anh) cũng rơi vào tình huống tương tự như báo Tuổi Trẻ. Trên số báo ra ngày 16-4, Thanh Niên cũng đưa tin như các báo khác và còn trích nguồn Thông tấn xã Việt Nam: “Ngoài ra ủy ban nói trên (tức Ủy ban Hỗ trợ chính thức cho việc bầu chọn vịnh Hạ Long của Việt Nam) cũng gửi công văn đề nghị Bộ Thông tin - Truyền thông cùng phối hợp để đưa ra những định hướng tuyên truyền và biện pháp xử lý vi phạm của các trang web nhằm sớm đưa vịnh Hạ Long trở lại với danh sách bầu chọn”.
Không lẽ báo này vi phạm mà còn đưa tin về chuyện xử lý vi phạm? Hóa ra không phải, yêu cầu của N7W là chuyện Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), một doanh nghiệp, không được tham gia vận động bầu chọn mà không được phép của họ (hay nói cách khác chưa trả phí cho họ!). Bằng cớ họ nêu ra để “hù dọa” EVN là bản tin đăng trên tờ Thanh Niên (ấn bản tiếng Anh) có địa chỉ nêu trên đưa tin về EVN và chuyện vận động bầu chọn. Chuyện rõ ràng như thế, không biết sao chính Ban vận động tuyên truyền bầu chọn Vịnh Hạ Long, trong công văn gởi Bộ Thông tin-Truyền thông cũng liệt kê nguyên địa chỉ website của tờ Thanh Niên như thể họ vi phạm. Và Thanh Niên cũng đã nhanh nhẩu gỡ bỏ nội dung này trên website của mình.
Cuộc bầu chọn của N7W là một sáng kiến kinh doanh của họ (có thu tiền từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là quảng cáo trên một website có rất nhiều người truy cập). Hiệu ứng đến đâu chưa thể nói được. Ví dụ, đến giờ còn ai nhớ bảy kỳ quan thế giới mới mà nơi này bầu chọn vào tháng 7 năm ngoái không? Chúng ta tham gia cũng tốt vì đây là dịp để quảng bá hình ảnh một số thắng cảnh của Việt Nam nhưng có lẽ không nên quan trọng hóa nó quá, không nên mất thì giờ vì nó quá và chắc chắn không nên biến nó thành chuyện mang tầm cỡ quốc gia.
Thứ Hai, 14 tháng 4, 2008
Nguoi do thi
Chuyện rất nhỏ
Hằng ngày có chừng 150 xe hơi mới tham gia lưu thông; điều đó có nghĩa hằng ngày có ít nhất 150 “người đô thị” chuyển từ phương tiện di chuyển khác, chủ yếu là xe gắn máy, sang chạy xe hơi. Không hiếm người trong số này đem theo cùng họ tâm lý và cách hành xử chạy xe gắn máy sang điều khiển ô tô cho nên không có gì lạ khi đường phố có nhiều cảnh chướng mắt do người lái xe hơi gây ra mà trước đây vài năm không hề có. Nào là chen lấn chạy hàng đôi, hàng ba, dồn thành dòng lấn sang làn đường dành cho xe gắn máy; nào là vội vàng ôm cua rẽ trái bất kể dòng xe cùng đường đang được quyền ưu tiên chạy thẳng, rồi bóp còi inh ỏi bất kỳ lúc nào thấy thích. Ngày xưa, lái xe hơi chủ yếu là người được đào tạo chuyên làm tài xế nên các bác tài lúc đó chạy xe rất nghiêm chỉnh, chấp hành luật lệ giao thông như một phản xạ nghề nghiệp. Nay có nhiều người học vội, lấy bằng nhanh và lái xe của chính họ như thể họ đang chạy xe gắn máy trên đường làng.
Xin nêu một chuyện rất nhỏ như thế để nói rằng: quản lý trật tự đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị phải đi từng điểm tưởng chừng nhỏ nhặt như phải nghiêm khắc trong việc thi và cấp bằng lái xe hơi mới mong ngăn chận sự hỗn loạn trong giao thông đô thị mà chắc chắn sẽ diễn ra cùng với con số “người đô thị” chuyển từ xe gắn máy sang xe hơi ngày càng tăng. Phải phạt thật nặng những người lái xe cố tình vi phạm luật giao thông, như kiểu thòi xe ra khỏi dòng xe đang nối đuôi thành hàng một, lấn lên chạy song song một đoạn, rồi chen ngang, thụt xe vào khi gần tới ngã tư vì sợ có cảnh sát giao thông!
Quản lý đô thị cũng phải được làm một cách khoa học từ những chuyện vặt vãnh khác: Đường phố đang được kẻ vạch bất kể quy luật. Rất nhiều con đường có vạch phân luồng cho xe gắn máy chút xíu, vạch cho xe hơi rộng thênh thang. Dĩ nhiên, người lái xe gắn máy, với nhiều tật xấu cố hữu, sẽ đời nào chịu khuôn phép bởi lằn vạch này. Vì sao không nghiên cứu kẻ vạch cho hợp lý hơn, để người chạy xe gắn máy vẫn chạy được trong luồng của mình và tự dưng thấy hình như mình đang chấp hành luật giao thông một cách tự nguyện, lâu ngày trở thành thói quen. Nhiều người hồ nghi rằng các biện pháp quản lý giao thông đô thị được nhập nguyên xi từ nước ngoài, nơi chủ yếu chỉ có xe hơi nên không phù hợp với các thành phố của Việt Nam. Rồi không biết hệ thống đèn xanh đèn đỏ có được điều khiển theo một nghiên cứu nào không hay chỉ ước đoán lưu lượng xe để cài đặt một cách võ đoán. Cứ thử quan sát mà xem, lúc nào ở ngã tư nào có anh cảnh sát giao thông một hôm tự bật tắc đèn xanh, đèn đỏ, dòng xe ứ lại sẽ dài hơn vì sự chủ quan của con người.
Giải quyết vấn đề tai nạn giao thông ắt sẽ phải tốn chi phí; vấn đề là chi tiêu tiền ngân sách vào đâu cho có hiệu quả nhất. Cũng tương tự như các câu chuyện nhỏ ở trên, thiết nghĩ nên tiêu tiền vào những chuyện rất sơ đẳng, tưởng chừng rất nhỏ. Chiến dịch buộc người đi xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm xem như đã thành công về mặt chấp hành. Vì sao không tiếp tục tiêu tiền ngân sách vào các chiến dịch tuyên truyền (bằng quảng cáo, bằng pano, áp phích, tài liệu…) cách đội mũ bảo hiểm đúng, chỉ rõ đội mũ như thế nào là sai, hình ảnh các vụ tai nạn do đội mũ sai… Vì sao không kiểm tra, xử phạt và công bố thật rộng rãi tên nhà sản xuất loại mũ không đảm bảo chất lượng. Con số tai nạn giao thông những tháng đầu năm, những cảnh báo trong mấy tuần gần đây cho thấy đội mũ bảo hiểm chưa giải quyết được vấn đề. Không lẽ chính quyền chỉ hài lòng thấy ai ai chạy xe ngoài đường đều có đội mũ bảo hiểm – còn họ đội mũ dỏm, đội mũ sai cách thì mặc kệ người dân?
Nguyễn Vạn Phú
Hằng ngày có chừng 150 xe hơi mới tham gia lưu thông; điều đó có nghĩa hằng ngày có ít nhất 150 “người đô thị” chuyển từ phương tiện di chuyển khác, chủ yếu là xe gắn máy, sang chạy xe hơi. Không hiếm người trong số này đem theo cùng họ tâm lý và cách hành xử chạy xe gắn máy sang điều khiển ô tô cho nên không có gì lạ khi đường phố có nhiều cảnh chướng mắt do người lái xe hơi gây ra mà trước đây vài năm không hề có. Nào là chen lấn chạy hàng đôi, hàng ba, dồn thành dòng lấn sang làn đường dành cho xe gắn máy; nào là vội vàng ôm cua rẽ trái bất kể dòng xe cùng đường đang được quyền ưu tiên chạy thẳng, rồi bóp còi inh ỏi bất kỳ lúc nào thấy thích. Ngày xưa, lái xe hơi chủ yếu là người được đào tạo chuyên làm tài xế nên các bác tài lúc đó chạy xe rất nghiêm chỉnh, chấp hành luật lệ giao thông như một phản xạ nghề nghiệp. Nay có nhiều người học vội, lấy bằng nhanh và lái xe của chính họ như thể họ đang chạy xe gắn máy trên đường làng.
Xin nêu một chuyện rất nhỏ như thế để nói rằng: quản lý trật tự đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị phải đi từng điểm tưởng chừng nhỏ nhặt như phải nghiêm khắc trong việc thi và cấp bằng lái xe hơi mới mong ngăn chận sự hỗn loạn trong giao thông đô thị mà chắc chắn sẽ diễn ra cùng với con số “người đô thị” chuyển từ xe gắn máy sang xe hơi ngày càng tăng. Phải phạt thật nặng những người lái xe cố tình vi phạm luật giao thông, như kiểu thòi xe ra khỏi dòng xe đang nối đuôi thành hàng một, lấn lên chạy song song một đoạn, rồi chen ngang, thụt xe vào khi gần tới ngã tư vì sợ có cảnh sát giao thông!
Quản lý đô thị cũng phải được làm một cách khoa học từ những chuyện vặt vãnh khác: Đường phố đang được kẻ vạch bất kể quy luật. Rất nhiều con đường có vạch phân luồng cho xe gắn máy chút xíu, vạch cho xe hơi rộng thênh thang. Dĩ nhiên, người lái xe gắn máy, với nhiều tật xấu cố hữu, sẽ đời nào chịu khuôn phép bởi lằn vạch này. Vì sao không nghiên cứu kẻ vạch cho hợp lý hơn, để người chạy xe gắn máy vẫn chạy được trong luồng của mình và tự dưng thấy hình như mình đang chấp hành luật giao thông một cách tự nguyện, lâu ngày trở thành thói quen. Nhiều người hồ nghi rằng các biện pháp quản lý giao thông đô thị được nhập nguyên xi từ nước ngoài, nơi chủ yếu chỉ có xe hơi nên không phù hợp với các thành phố của Việt Nam. Rồi không biết hệ thống đèn xanh đèn đỏ có được điều khiển theo một nghiên cứu nào không hay chỉ ước đoán lưu lượng xe để cài đặt một cách võ đoán. Cứ thử quan sát mà xem, lúc nào ở ngã tư nào có anh cảnh sát giao thông một hôm tự bật tắc đèn xanh, đèn đỏ, dòng xe ứ lại sẽ dài hơn vì sự chủ quan của con người.
Giải quyết vấn đề tai nạn giao thông ắt sẽ phải tốn chi phí; vấn đề là chi tiêu tiền ngân sách vào đâu cho có hiệu quả nhất. Cũng tương tự như các câu chuyện nhỏ ở trên, thiết nghĩ nên tiêu tiền vào những chuyện rất sơ đẳng, tưởng chừng rất nhỏ. Chiến dịch buộc người đi xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm xem như đã thành công về mặt chấp hành. Vì sao không tiếp tục tiêu tiền ngân sách vào các chiến dịch tuyên truyền (bằng quảng cáo, bằng pano, áp phích, tài liệu…) cách đội mũ bảo hiểm đúng, chỉ rõ đội mũ như thế nào là sai, hình ảnh các vụ tai nạn do đội mũ sai… Vì sao không kiểm tra, xử phạt và công bố thật rộng rãi tên nhà sản xuất loại mũ không đảm bảo chất lượng. Con số tai nạn giao thông những tháng đầu năm, những cảnh báo trong mấy tuần gần đây cho thấy đội mũ bảo hiểm chưa giải quyết được vấn đề. Không lẽ chính quyền chỉ hài lòng thấy ai ai chạy xe ngoài đường đều có đội mũ bảo hiểm – còn họ đội mũ dỏm, đội mũ sai cách thì mặc kệ người dân?
Nguyễn Vạn Phú
Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2008
Diem phim
August Rush – cổ tích hiện đại
Có thể rất nhiều người sẽ nhận xét August Rush là một phim rất “sến” vì dựa theo một cốt truyện lâm li theo kiểu “Mùa thu lá bay” của Quỳnh Dao. Nhưng vượt qua sự phi lý của nội dung, cái tầm thường của những môtif quen thuộc, diễn xuất của cậu bé vai chính (Freddie Highmore đóng) và âm nhạc tuyệt vời trong phim có thể làm các cô chảy nước mắt và các chàng trai phải ôm chiếc đàn guitar đã bỏ quên trong góc phòng, mơ màng về một thời mọi chuyện tưởng đơn giản như câu chuyện cổ tích.
Evan Taylor là một cậu bé mồ côi sống “giữa” âm nhạc, cậu nghe tiếng nhạc từ bất kỳ âm thanh nào quanh cậu và cậu tin âm nhạc sẽ giúp cậu tìm lại bố mẹ. Hơn 11 năm trước Louis (do Jonathan Rhys Meyers đóng), một ca sĩ nhạc rock và Lyla (do Keri Russell thủ vai), một nghệ sĩ cello tình cờ gặp nhau và có cuộc tình một đêm, sau đó hai người phải chia tay vì người bố đầy tham vọng cho tương lai cô con gái tài năng của mình. Đúng như môtip thường thấy gần chín tháng sau, Lyla đang mang thai bị tai nạn xe hơi, phải sinh non và ông bố đem Evan đi cho, nói dối con đứa bé đã chết. Louis, Lyla mỗi người một phương, đã bỏ âm nhạc nhưng vẫn không thể có cuộc sống bình thường như thể họ phải đi tìm gặp nhau và tìm lại đứa con chưa biết mặt của họ.
Lúc này Evan bỏ trại mồ côi lên New York, lại rơi vào tay một gã chuyên lợi dụng tài năng của bọn trẻ đường phố để kiếm sống. Câu chuyện cổ tích bắt đầu khi Evan sau mấy giờ học, đã đàn guitar thành thạo, soạn nhạc dễ dàng như thở và sau sáu tháng học tại nhạc viện đã sáng tác một bản giao hưởng đồ sộ mà cậu tin sẽ giúp cậu tìm ra bố mẹ mình. Cậu bé trải qua nhiều cuộc phiêu lưu, nhiều biến cố nhưng, đúng như nhiều người xem phim có thể đoán ngay từ đầu – sẽ có một kết thúc có hậu.
Câu chuyện chỉ có thế và đầy tình tiết phi lý như thế nhưng người xem hầu như không thể dứt mắt, ngoảnh tai trước màn hình. Họ như bị điện giật khi lần đầu tiên cậu bé Evan tiếp xúc với cây đàn guitar, không ôm đàn như bình thường mà để nó nằm dài dưới đất, không gảy đàn như mọi người mà “vỗ” dây đàn tạo ra tiếng nhạc làm say đắm lòng người.
Trong khi hàng loạt phim khác với những tình tiết phi lý theo kiểu rượt đuổi bằng xe bằng máy bay hay chạy tuốt vào lòng quả đất thì không ai nói gì, tại sao một phim như August Rush lại bị nhiều nhà điểm phim ở Mỹ chê là “một Oliver Twist” sướt mướt hiện đại. Để xem phim, tốt nhất bạn thả lỏng người ra, và cùng cậu bé Evan được đặt nghệ danh là August Rush lắng nghe tiếng nhạc trong dòng xe hối hả, trong tiếng tàu điện rầm rập và cả trong tiếng phong linh…, nghe tiếng nhạc cổ điển hòa quyện tài tình vào dòng nhạc rock cuồng nhiệt. Thế giới từng có thiên tài âm nhạc Mozart, tại sao không thể có một thiên tài như thế xuất hiện trong phim để nuôi dưỡng lòng yêu âm nhạc trong con người, để tin rằng thế giới “ở hiền gặp lành” vẫn tồn tại. Cảm động nhất là trường đoạn Evan gặp cha nhưng cả hai không nhận ra nhau, chỉ cùng nhau song tấu một bài guitar ngẫu hứng tuyệt vời.
Mặc dù nhìn chung August Rush bị giới phê bình phim ở Mỹ chê nhưng theo thông tin từ nhiều diễn đàn điện ảnh, khán giả trong rạp đã đồng loạt đứng lên vỗ tay khi phim kết thúc – một loại lời bình đáng giá và thật hơn nhiều.
Vân Cầm
Có thể rất nhiều người sẽ nhận xét August Rush là một phim rất “sến” vì dựa theo một cốt truyện lâm li theo kiểu “Mùa thu lá bay” của Quỳnh Dao. Nhưng vượt qua sự phi lý của nội dung, cái tầm thường của những môtif quen thuộc, diễn xuất của cậu bé vai chính (Freddie Highmore đóng) và âm nhạc tuyệt vời trong phim có thể làm các cô chảy nước mắt và các chàng trai phải ôm chiếc đàn guitar đã bỏ quên trong góc phòng, mơ màng về một thời mọi chuyện tưởng đơn giản như câu chuyện cổ tích.
Evan Taylor là một cậu bé mồ côi sống “giữa” âm nhạc, cậu nghe tiếng nhạc từ bất kỳ âm thanh nào quanh cậu và cậu tin âm nhạc sẽ giúp cậu tìm lại bố mẹ. Hơn 11 năm trước Louis (do Jonathan Rhys Meyers đóng), một ca sĩ nhạc rock và Lyla (do Keri Russell thủ vai), một nghệ sĩ cello tình cờ gặp nhau và có cuộc tình một đêm, sau đó hai người phải chia tay vì người bố đầy tham vọng cho tương lai cô con gái tài năng của mình. Đúng như môtip thường thấy gần chín tháng sau, Lyla đang mang thai bị tai nạn xe hơi, phải sinh non và ông bố đem Evan đi cho, nói dối con đứa bé đã chết. Louis, Lyla mỗi người một phương, đã bỏ âm nhạc nhưng vẫn không thể có cuộc sống bình thường như thể họ phải đi tìm gặp nhau và tìm lại đứa con chưa biết mặt của họ.
Lúc này Evan bỏ trại mồ côi lên New York, lại rơi vào tay một gã chuyên lợi dụng tài năng của bọn trẻ đường phố để kiếm sống. Câu chuyện cổ tích bắt đầu khi Evan sau mấy giờ học, đã đàn guitar thành thạo, soạn nhạc dễ dàng như thở và sau sáu tháng học tại nhạc viện đã sáng tác một bản giao hưởng đồ sộ mà cậu tin sẽ giúp cậu tìm ra bố mẹ mình. Cậu bé trải qua nhiều cuộc phiêu lưu, nhiều biến cố nhưng, đúng như nhiều người xem phim có thể đoán ngay từ đầu – sẽ có một kết thúc có hậu.
Câu chuyện chỉ có thế và đầy tình tiết phi lý như thế nhưng người xem hầu như không thể dứt mắt, ngoảnh tai trước màn hình. Họ như bị điện giật khi lần đầu tiên cậu bé Evan tiếp xúc với cây đàn guitar, không ôm đàn như bình thường mà để nó nằm dài dưới đất, không gảy đàn như mọi người mà “vỗ” dây đàn tạo ra tiếng nhạc làm say đắm lòng người.
Trong khi hàng loạt phim khác với những tình tiết phi lý theo kiểu rượt đuổi bằng xe bằng máy bay hay chạy tuốt vào lòng quả đất thì không ai nói gì, tại sao một phim như August Rush lại bị nhiều nhà điểm phim ở Mỹ chê là “một Oliver Twist” sướt mướt hiện đại. Để xem phim, tốt nhất bạn thả lỏng người ra, và cùng cậu bé Evan được đặt nghệ danh là August Rush lắng nghe tiếng nhạc trong dòng xe hối hả, trong tiếng tàu điện rầm rập và cả trong tiếng phong linh…, nghe tiếng nhạc cổ điển hòa quyện tài tình vào dòng nhạc rock cuồng nhiệt. Thế giới từng có thiên tài âm nhạc Mozart, tại sao không thể có một thiên tài như thế xuất hiện trong phim để nuôi dưỡng lòng yêu âm nhạc trong con người, để tin rằng thế giới “ở hiền gặp lành” vẫn tồn tại. Cảm động nhất là trường đoạn Evan gặp cha nhưng cả hai không nhận ra nhau, chỉ cùng nhau song tấu một bài guitar ngẫu hứng tuyệt vời.
Mặc dù nhìn chung August Rush bị giới phê bình phim ở Mỹ chê nhưng theo thông tin từ nhiều diễn đàn điện ảnh, khán giả trong rạp đã đồng loạt đứng lên vỗ tay khi phim kết thúc – một loại lời bình đáng giá và thật hơn nhiều.
Vân Cầm
Thứ Năm, 20 tháng 3, 2008
Doc sach
Lo chuyện… bao đồng?
Nguyễn Vạn Phú
Nhân Hội sách lần thứ 5 vừa được tổ chức, vấn đề người Việt có mê đọc sách không lại được đưa ra thảo luận. Thú thật, mỗi lần nghe bàn đến chuyện này, người viết có cảm giác như thể ai đó hỏi: nhân loại có còn mê ăn không?
Thử nhớ lại các bà mẹ Việt Nam cách đây chừng mấy chục năm, rất nhiều bà không biết đọc, chưa từng được cầm cuốn sách nào nhưng cũng rất nhiều bà thuộc lòng truyện Kiều và vô vàn câu thơ, câu vè, lại sử dụng chúng rất nhuần nhuyễn trong cuộc sống, trong nuôi dạy con cái. Ai dám bảo các bà mẹ chúng ta không đọc sách, hiểu theo một nghĩa đen thô thiển.
Lịch sử văn học dân gian cũng tràn đầy những dẫn chứng cho thấy “đọc sách” không bao giờ được hiểu ở một góc cạnh bó hẹp như đang được hiểu. “Sách” dù không tồn tại trên giấy mực, vẫn được “in” ra và lưu truyền, mỗi năm có một “ấn bản” mới, hay hơn “ấn bản” trước, để cuối cùng nhân loại có những tuyệt tác còn lại đến ngày nay.
Vì thế, khi bàn đến chuyện người Việt có mê đọc sách không, thiết tưởng phải định nghĩa lại hai từ cơ bản là “đọc” và “sách”. Cuốn Mật mã Da Vinci có sức lôi cuốn đến nỗi, không chờ được bản dịch, không thể gởi mua từ nước ngoài về, tôi đã tải từ trên mạng Internet, bỏ vào chiếc máy điện thoại sử dụng hệ điều hành Windows Mobile, đọc một cách say mê. Không sờ vào giấy, chẳng thấy chút mực nào, tôi vẫn đang đọc sách đấy chứ. Và có lẽ nhiều người bảo, nhờ thế mà tránh được “thảm họa dịch thuật” từng được bàn tán sôi nổi một thời gian.
Ví dụ này quá rõ nên có lẽ được nhiều người đồng tình. Nhưng thử giả định tiếp, một em “đọc” Tây Du Ký qua bộ phim truyền hình nhiều tập cùng tên, một bác “đọc” những phóng sự về rừng già Amazon qua các bộ phim tài liệu, một cô “đọc” và tìm hiểu cảm giác cô đơn của giới trẻ qua những bản nhạc cô yêu thích – thì rõ ràng họ vẫn đang “đọc sách” đó thôi.
Nếu ngày trước, kiến thức nhân loại chỉ có một con đường phổ biến là sách in thì ngày nay dòng kiến thức đó, đã tăng bội lần, được truyền tải bằng nhiều phương tiện, dưới nhiều hình thức. Nói cho cùng, nhu cầu “đọc” để hiểu cuộc sống chung quanh mình, để chia sẻ với đồng loại là nhu cầu không bao giờ mất đi cho nên con người không bao giờ hết mê “đọc sách”. Vấn đề là họ tìm cách thỏa mãn nhu cầu đó bằng cách nào và con đường nào; và đó là chọn lựa tối ưu của mỗi cá nhân, không có gì phải lo lắng hay băn khoăn cho họ cả.
Lấy ví dụ, trước khi Việt Nam có thị trường chứng khoán, dù thị trường có cuốn sách được viết hay đến mấy, chắc cũng ít người tìm đọc. Đến khi, người người chơi chứng khoán, nhà nhà lên sàn, không ai bảo ai, các tiệm sách bỗng tràn ngập loại sách này. Hiện nay người Việt ít mua sách về đọc, đơn giản là thị trường sách chưa thỏa mãn nhu cầu đọc của họ. Không ai chịu bị lừa nhiều lần, bỏ tiền mua các cuốn sách được làm cẩu thả, sai kiến thức, sao chép… Ngược lại, sách thuộc loại khó đọc như các cuốn sách kinh điển về triết học làm cẩn thận, biên soạn công phu vẫn thuộc loại sách bán chạy trong những năm gần đây.
Và trong thời đại thông tin tràn ngập hiện nay, không ai đọc theo kiểu ôm khư khư các cuốn sách gối đầu giường như kiểu ông cha ta đem Tứ thư Ngũ kinh ra tụng thuộc lòng. Nhu cầu của tôi là tìm hiểu diễn biến của toàn cầu hóa, tôi sẽ dùng Internet tìm đúng đến tài liệu cầu đọc, thậm chí vừa đọc vừa trao đổi với người khác nếu đó là mạng Internet 2.0. Nếu tôi muốn làm quen với hệ điều hành Palm chẳng hạn, tôi sẽ vào các diễn đàn chuyên về chủ đề này và ở đó, tôi sẽ đọc được hàng tấn thông tin, còn bổ ích và thiết thực gấp nhiều lần so với một cuốn sách về chủ đề tương tự.
Xin mở rộng ra một chút về các đề tài “lớn lao” hơn. Các bộ phim tầm phào như “300” lại hé mở cho thấy một góc tâm lý phương Tây về Hồi giáo, về cuộc chiến tại Iraq nhiều hơn cả chục cuốn sách dày cộp. Các blog cho thấy nhiều điều không sách nào phản ánh hết được.
Như vậy, vấn đề không phải là người Việt có mê đọc sách không mà ở chỗ làm sao có sách hay để “mê đọc” và làm sao thế hệ trẻ được giáo dục ở nhà trường cách thẩm định đúng đắn cái hay cái dở của sách, một cách tự do chứ không bị ràng buộc bởi những định kiến hay khuôn khổ như kiểu “đọc sách” phải là “đọc sách”. Không có công cụ đó, chúng sẽ lớn lên và sẽ phải mất nhiều thì giờ hơn để tìm hiểu thế giới quanh chúng, phải mày mò qua các bộ phim truyền hình ướt át nhiều tập hay sau hàng giờ ngồi chat trước máy tính.
Nguyễn Vạn Phú
Nhân Hội sách lần thứ 5 vừa được tổ chức, vấn đề người Việt có mê đọc sách không lại được đưa ra thảo luận. Thú thật, mỗi lần nghe bàn đến chuyện này, người viết có cảm giác như thể ai đó hỏi: nhân loại có còn mê ăn không?
Thử nhớ lại các bà mẹ Việt Nam cách đây chừng mấy chục năm, rất nhiều bà không biết đọc, chưa từng được cầm cuốn sách nào nhưng cũng rất nhiều bà thuộc lòng truyện Kiều và vô vàn câu thơ, câu vè, lại sử dụng chúng rất nhuần nhuyễn trong cuộc sống, trong nuôi dạy con cái. Ai dám bảo các bà mẹ chúng ta không đọc sách, hiểu theo một nghĩa đen thô thiển.
Lịch sử văn học dân gian cũng tràn đầy những dẫn chứng cho thấy “đọc sách” không bao giờ được hiểu ở một góc cạnh bó hẹp như đang được hiểu. “Sách” dù không tồn tại trên giấy mực, vẫn được “in” ra và lưu truyền, mỗi năm có một “ấn bản” mới, hay hơn “ấn bản” trước, để cuối cùng nhân loại có những tuyệt tác còn lại đến ngày nay.
Vì thế, khi bàn đến chuyện người Việt có mê đọc sách không, thiết tưởng phải định nghĩa lại hai từ cơ bản là “đọc” và “sách”. Cuốn Mật mã Da Vinci có sức lôi cuốn đến nỗi, không chờ được bản dịch, không thể gởi mua từ nước ngoài về, tôi đã tải từ trên mạng Internet, bỏ vào chiếc máy điện thoại sử dụng hệ điều hành Windows Mobile, đọc một cách say mê. Không sờ vào giấy, chẳng thấy chút mực nào, tôi vẫn đang đọc sách đấy chứ. Và có lẽ nhiều người bảo, nhờ thế mà tránh được “thảm họa dịch thuật” từng được bàn tán sôi nổi một thời gian.
Ví dụ này quá rõ nên có lẽ được nhiều người đồng tình. Nhưng thử giả định tiếp, một em “đọc” Tây Du Ký qua bộ phim truyền hình nhiều tập cùng tên, một bác “đọc” những phóng sự về rừng già Amazon qua các bộ phim tài liệu, một cô “đọc” và tìm hiểu cảm giác cô đơn của giới trẻ qua những bản nhạc cô yêu thích – thì rõ ràng họ vẫn đang “đọc sách” đó thôi.
Nếu ngày trước, kiến thức nhân loại chỉ có một con đường phổ biến là sách in thì ngày nay dòng kiến thức đó, đã tăng bội lần, được truyền tải bằng nhiều phương tiện, dưới nhiều hình thức. Nói cho cùng, nhu cầu “đọc” để hiểu cuộc sống chung quanh mình, để chia sẻ với đồng loại là nhu cầu không bao giờ mất đi cho nên con người không bao giờ hết mê “đọc sách”. Vấn đề là họ tìm cách thỏa mãn nhu cầu đó bằng cách nào và con đường nào; và đó là chọn lựa tối ưu của mỗi cá nhân, không có gì phải lo lắng hay băn khoăn cho họ cả.
Lấy ví dụ, trước khi Việt Nam có thị trường chứng khoán, dù thị trường có cuốn sách được viết hay đến mấy, chắc cũng ít người tìm đọc. Đến khi, người người chơi chứng khoán, nhà nhà lên sàn, không ai bảo ai, các tiệm sách bỗng tràn ngập loại sách này. Hiện nay người Việt ít mua sách về đọc, đơn giản là thị trường sách chưa thỏa mãn nhu cầu đọc của họ. Không ai chịu bị lừa nhiều lần, bỏ tiền mua các cuốn sách được làm cẩu thả, sai kiến thức, sao chép… Ngược lại, sách thuộc loại khó đọc như các cuốn sách kinh điển về triết học làm cẩn thận, biên soạn công phu vẫn thuộc loại sách bán chạy trong những năm gần đây.
Và trong thời đại thông tin tràn ngập hiện nay, không ai đọc theo kiểu ôm khư khư các cuốn sách gối đầu giường như kiểu ông cha ta đem Tứ thư Ngũ kinh ra tụng thuộc lòng. Nhu cầu của tôi là tìm hiểu diễn biến của toàn cầu hóa, tôi sẽ dùng Internet tìm đúng đến tài liệu cầu đọc, thậm chí vừa đọc vừa trao đổi với người khác nếu đó là mạng Internet 2.0. Nếu tôi muốn làm quen với hệ điều hành Palm chẳng hạn, tôi sẽ vào các diễn đàn chuyên về chủ đề này và ở đó, tôi sẽ đọc được hàng tấn thông tin, còn bổ ích và thiết thực gấp nhiều lần so với một cuốn sách về chủ đề tương tự.
Xin mở rộng ra một chút về các đề tài “lớn lao” hơn. Các bộ phim tầm phào như “300” lại hé mở cho thấy một góc tâm lý phương Tây về Hồi giáo, về cuộc chiến tại Iraq nhiều hơn cả chục cuốn sách dày cộp. Các blog cho thấy nhiều điều không sách nào phản ánh hết được.
Như vậy, vấn đề không phải là người Việt có mê đọc sách không mà ở chỗ làm sao có sách hay để “mê đọc” và làm sao thế hệ trẻ được giáo dục ở nhà trường cách thẩm định đúng đắn cái hay cái dở của sách, một cách tự do chứ không bị ràng buộc bởi những định kiến hay khuôn khổ như kiểu “đọc sách” phải là “đọc sách”. Không có công cụ đó, chúng sẽ lớn lên và sẽ phải mất nhiều thì giờ hơn để tìm hiểu thế giới quanh chúng, phải mày mò qua các bộ phim truyền hình ướt át nhiều tập hay sau hàng giờ ngồi chat trước máy tính.
Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2008
Diem phim
In the Valley of Elah - Một góc nhìn phản chiến
Vân Cầm
Gọi là phim phản chiến nhưng “In the Valley of Elah” bắt đầu như một phim hình sự. Viên trung sĩ già đã nghỉ hưu Hank Deerfield (Tommy Lee Jones đóng) một hôm bỗng nhận tin báo con ông đã từ chiến trường Iraq trở về nhưng lại mất tích ngay trên đất Mỹ. Với kinh nghiệm làm cảnh sát quân sự trong nhiều năm, Deerfield lái xe đường dài đến khu căn cứ nơi con ông đóng quân để tìm con. Phim tiếp tục như một cuộc điều tra tội phạm, với những đầu mối buôn bán ma túy, băng đảng địa phương… Xen kẽ là những đoạn phim ngắn về những ngày con ông đóng quân ở Iraq quay bằng máy điện thoại di động mờ mờ ảo ảo do Deerfield tìm được trong đống đồ đạc con ông để lại. Cảnh sát địa phương cuối cùng tìm ra xác con ông, bị cắt thành nhiều mảnh, nghi ngờ lớn nhất cũng là băng đảng Mexico buôn lậu ma túy mà con ông có khả năng dính líu. Kết cục bất ngờ: con ông bị nhóm đồng đội sát hại vì một lý do không đâu vào đâu; tất cả nhóm lính trong trung đội này đã trở thành con người khác, hoang mang, hung dữ, điên rồ, lạc hướng sau những ngày tháng bị biến thành những cổ máy sát nhân ở Iraq.
Đạo diễn Paul Haggis, người từng đoạt giải Oscar phim hay nhất năm 2005 với bộ phim “Crash” – một bức tranh phức tạp về nạn phân biệt chủng tộc ở Mỹ - nay quay sang đề tài phản chiến. Phim dựa trên hình thức điều tra hình sự, không chỉ để thu hút người xem mà còn là sự điều tra, tự vấn về cuộc chiến Iraq nơi những người lính Mỹ trẻ đánh mất sự ngây thơ của họ qua góc nhìn của người cha từng theo nghiệp lính suốt đời. Các đoạn phim quay bằng máy điện thoại di động bị hỏng, được một tay rành máy móc phục hồi, đã hé mở cho thấy nỗi kinh hoàng của chiến tranh khi lính Mỹ tra tấn tù nhân như một trò đùa, nhấn ga xe tải cán chết em bé vì sợ dừng lại sẽ bị phục kích… Deerfield bị ám ảnh bởi cú điện thoại của con ông khi còn ở Iraq, cầu cứu ông, mong tìm nơi ông sự giải thích cho sự điên rồ của chính mình và đồng đội. Nhưng tất cả chỉ là những tiếng vọng, những hình ảnh chập chờn, như thể đạo diễn muốn tránh nói trực tiếp đến cuộc chiến hay muốn tạo ấn tượng hỗn loạn, mơ hồ như cách nhiều người Mỹ đang nghĩ về cuộc chiến Iraq hiện nay.
Tommy Lee Jones, được đề cử giải Oscar cho nam diễn viên xuất sắc trong bộ phim này, đã đóng trọn vai trò một người cha, một người cựu binh, lần mò theo các dấu vết để tìm con. Người xem theo từng bước chân của ông, không phải để khám phá một vụ án hình sự, mà dấn sâu vào tâm hồn bị hủy hoại của người con, về bi kịch con người ở Iraq. Những nếp nhăn trên khuôn mặt ông dường như ngày càng sâu hơn khi ông dần dà phải chấp nhận thực tế: cuộc chiến ở Iraq đã biến con ông cũng như đồng đội anh ta thành những con người khác, nơi thú tính lấn lướt lý trí. Góc nhìn của một người cựu binh, luôn ủng hộ quân đội Mỹ, càng làm sự thức tỉnh này đau đớn hơn cho ông và cho người xem. Tommy Lee Jones hầu như không dùng thừa lời nói nào trong suốt phim, ngay cả với bà vợ đang chờ tin ở nhà nhưng nỗi đau như chảy ra từ nét nhìn sâu thẳm của ông.
Xen vào phim là một dòng chảy khác, về nữ cảnh sát Emily Sanders (Charlize Theron đóng), bị các đồng nghiệp nam quấy rối, bị ám ảnh bởi một vụ án bạo hành gia đình gây chết người mà lẽ ra cô đã có thể can thiệp. Với sự giúp đỡ của Sanders, Deerfield đã vượt qua sự thờ ơ của cảnh sát địa phương và nỗ lực che giấu sự thật của bên quân đội để tìm ra sự thật về số phận con ông.
Tựa phim có lẽ không phù hợp cho lắm vì Thung lũng Elah là nơi diễn ra cuộc đối đầu không cân sức giữa David và Goliath trong kinh Cựu Ước. Ở đây không có ai là chú bé, không có ai là gã khổng lồ; chỉ có những kẻ vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của một cuộc chiến phi lý. In the Valley of Elah dựa vào câu chuyện có thật cũng là một lính Mỹ trở về từ Iraq và bị đâm chết cách đây mấy năm. Đạo diễn kiêm tác giả kịch bản Haggis đã đổi địa danh, tên tuổi và thêm những chi tiết có thật ông khai thác từ những cựu binh khác để dựng phim này. Haggis cũng là tác giả hay đồng tác giả những kịch bản phim nổi tiếng khác như Million Dollar Baby, Letters from Iwo Jima…
Dòng phim về cuộc chiến Iraq không thành công về mặt doanh thu. Mặc dù được đánh giá cao bởi những nhà phê bình phim ở Mỹ, In the Valley of Elah chỉ thu được 6,7 triệu đô-la, có lẽ vì phim đi ngược lối kết phim có hậu của Hollywood, cũng không phải là loại phim vừa xem vừa nhai bắp rang. Bộ phim “Rendition” cũng chỉ thu về 9,7 triệu đô-la và “Lambs for Lions” cũng thất bại trong phòng vé. Ngay cả phim “Kingdom” chỉ thu về 47 triệu đô-la trong khi chi phí lên đến 80 triệu đô-la. Dù sao, góc nhìn gián tiếp của phim lại thuyết phục hơn, buộc người xem suy nghĩ nhiều hơn so với những phim tương tự trực tiếp khai thác tâm lý suy sụp của cựu binh Mỹ khi trở về cuộc sống bình thường.
Vân Cầm
Gọi là phim phản chiến nhưng “In the Valley of Elah” bắt đầu như một phim hình sự. Viên trung sĩ già đã nghỉ hưu Hank Deerfield (Tommy Lee Jones đóng) một hôm bỗng nhận tin báo con ông đã từ chiến trường Iraq trở về nhưng lại mất tích ngay trên đất Mỹ. Với kinh nghiệm làm cảnh sát quân sự trong nhiều năm, Deerfield lái xe đường dài đến khu căn cứ nơi con ông đóng quân để tìm con. Phim tiếp tục như một cuộc điều tra tội phạm, với những đầu mối buôn bán ma túy, băng đảng địa phương… Xen kẽ là những đoạn phim ngắn về những ngày con ông đóng quân ở Iraq quay bằng máy điện thoại di động mờ mờ ảo ảo do Deerfield tìm được trong đống đồ đạc con ông để lại. Cảnh sát địa phương cuối cùng tìm ra xác con ông, bị cắt thành nhiều mảnh, nghi ngờ lớn nhất cũng là băng đảng Mexico buôn lậu ma túy mà con ông có khả năng dính líu. Kết cục bất ngờ: con ông bị nhóm đồng đội sát hại vì một lý do không đâu vào đâu; tất cả nhóm lính trong trung đội này đã trở thành con người khác, hoang mang, hung dữ, điên rồ, lạc hướng sau những ngày tháng bị biến thành những cổ máy sát nhân ở Iraq.
Đạo diễn Paul Haggis, người từng đoạt giải Oscar phim hay nhất năm 2005 với bộ phim “Crash” – một bức tranh phức tạp về nạn phân biệt chủng tộc ở Mỹ - nay quay sang đề tài phản chiến. Phim dựa trên hình thức điều tra hình sự, không chỉ để thu hút người xem mà còn là sự điều tra, tự vấn về cuộc chiến Iraq nơi những người lính Mỹ trẻ đánh mất sự ngây thơ của họ qua góc nhìn của người cha từng theo nghiệp lính suốt đời. Các đoạn phim quay bằng máy điện thoại di động bị hỏng, được một tay rành máy móc phục hồi, đã hé mở cho thấy nỗi kinh hoàng của chiến tranh khi lính Mỹ tra tấn tù nhân như một trò đùa, nhấn ga xe tải cán chết em bé vì sợ dừng lại sẽ bị phục kích… Deerfield bị ám ảnh bởi cú điện thoại của con ông khi còn ở Iraq, cầu cứu ông, mong tìm nơi ông sự giải thích cho sự điên rồ của chính mình và đồng đội. Nhưng tất cả chỉ là những tiếng vọng, những hình ảnh chập chờn, như thể đạo diễn muốn tránh nói trực tiếp đến cuộc chiến hay muốn tạo ấn tượng hỗn loạn, mơ hồ như cách nhiều người Mỹ đang nghĩ về cuộc chiến Iraq hiện nay.
Tommy Lee Jones, được đề cử giải Oscar cho nam diễn viên xuất sắc trong bộ phim này, đã đóng trọn vai trò một người cha, một người cựu binh, lần mò theo các dấu vết để tìm con. Người xem theo từng bước chân của ông, không phải để khám phá một vụ án hình sự, mà dấn sâu vào tâm hồn bị hủy hoại của người con, về bi kịch con người ở Iraq. Những nếp nhăn trên khuôn mặt ông dường như ngày càng sâu hơn khi ông dần dà phải chấp nhận thực tế: cuộc chiến ở Iraq đã biến con ông cũng như đồng đội anh ta thành những con người khác, nơi thú tính lấn lướt lý trí. Góc nhìn của một người cựu binh, luôn ủng hộ quân đội Mỹ, càng làm sự thức tỉnh này đau đớn hơn cho ông và cho người xem. Tommy Lee Jones hầu như không dùng thừa lời nói nào trong suốt phim, ngay cả với bà vợ đang chờ tin ở nhà nhưng nỗi đau như chảy ra từ nét nhìn sâu thẳm của ông.
Xen vào phim là một dòng chảy khác, về nữ cảnh sát Emily Sanders (Charlize Theron đóng), bị các đồng nghiệp nam quấy rối, bị ám ảnh bởi một vụ án bạo hành gia đình gây chết người mà lẽ ra cô đã có thể can thiệp. Với sự giúp đỡ của Sanders, Deerfield đã vượt qua sự thờ ơ của cảnh sát địa phương và nỗ lực che giấu sự thật của bên quân đội để tìm ra sự thật về số phận con ông.
Tựa phim có lẽ không phù hợp cho lắm vì Thung lũng Elah là nơi diễn ra cuộc đối đầu không cân sức giữa David và Goliath trong kinh Cựu Ước. Ở đây không có ai là chú bé, không có ai là gã khổng lồ; chỉ có những kẻ vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của một cuộc chiến phi lý. In the Valley of Elah dựa vào câu chuyện có thật cũng là một lính Mỹ trở về từ Iraq và bị đâm chết cách đây mấy năm. Đạo diễn kiêm tác giả kịch bản Haggis đã đổi địa danh, tên tuổi và thêm những chi tiết có thật ông khai thác từ những cựu binh khác để dựng phim này. Haggis cũng là tác giả hay đồng tác giả những kịch bản phim nổi tiếng khác như Million Dollar Baby, Letters from Iwo Jima…
Dòng phim về cuộc chiến Iraq không thành công về mặt doanh thu. Mặc dù được đánh giá cao bởi những nhà phê bình phim ở Mỹ, In the Valley of Elah chỉ thu được 6,7 triệu đô-la, có lẽ vì phim đi ngược lối kết phim có hậu của Hollywood, cũng không phải là loại phim vừa xem vừa nhai bắp rang. Bộ phim “Rendition” cũng chỉ thu về 9,7 triệu đô-la và “Lambs for Lions” cũng thất bại trong phòng vé. Ngay cả phim “Kingdom” chỉ thu về 47 triệu đô-la trong khi chi phí lên đến 80 triệu đô-la. Dù sao, góc nhìn gián tiếp của phim lại thuyết phục hơn, buộc người xem suy nghĩ nhiều hơn so với những phim tương tự trực tiếp khai thác tâm lý suy sụp của cựu binh Mỹ khi trở về cuộc sống bình thường.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Bài đăng phổ biến
-
Dưới đây là một số hình ảnh đẹp của Ngọc Trinh trong những bộ bikini sexy khoe đường cong gợi cảm. Xin mời các bạn cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp ...
-
Cùng ngắm bộ sưu tập ảnh gái đẹp khoe hàng nóng bỏng nhất, ảnh hot girl sở hữu vòng 1 cực khủng tại thugian180. Góc thư giãn luôn cập nhật c...
-
Hiện nay trào lưu khoe hàng của các hot girl ngày càng rầm rộ. Các hot girl đua nhau tung ảnh nóng để được gia nhập vào giới Showbit. Chính...
-
Tuyển chọn những bộ ảnh gái đẹp nóng bỏng khoe hàng cực sexy. Dưới đây là chùm ảnh nóng và gợi cảm của những hot girl khoe vòng 1 siêu khủ...
-
Bộ sưu tập khung ảnh đẹp nhất - tải khung ảnh đẹp Tổng hợp các khung ảnh đẹp nhất mà mình sưu tầm được xin chia sẽ cùng các bạn. Bộ sưu t...
-
Hôm nay góc thư giãn xin up phần tiếp theo của bộ truyện tranh 18+ Kim Chi và Củ Cải cho các bạn giải trí. Blog luôn cập nhật thường xuyên ...
-
Cùng ngắm album ảnh bikini nóng bỏng mắt của hot girl Nu Phạm Nu Phạm - một hot girl sở hữu vóc dáng đẹp với 3 vòng lý tưởng và một gương m...
-
Tuyển chọn những hình ảnh gái đẹp sexy khoe hàng nóng bỏng cho các bạn rửa mắt đây. Cùng ngắm các bộ sưu tập ảnh đẹp girl xinh khoe hàng , ả...
-
Bộ sưu tập ảnh nóng Ngọc Trinh khoe hàng cực sexy - Ảnh Ngọc Trinh trong trang phục bikini nóng bỏng. Cùng ngắm bộ ảnh cực nóng của Ngọc T...
-
hotgirl bán diêm Có một... hot girl nổi tiếng khắp vùng. Nàng có một sắc đẹp mà bất cứ người con trai nào nhìn thấy cũng... lảo đảo. Trong t...