Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2008

Di tim buc tranh tong the

Đi tìm bức tranh tổng thể

Nguyễn Vạn Phú

Với người dân bình thường, câu hỏi đặt ra là họ không “chơi” chứng khoán, không đầu cơ địa ốc, không nhập ô-tô đắt tiền, tại sao họ phải gánh chịu khó khăn hiện nay của nền kinh tế do lòng tham của người khác gây ra? Khi các phân tích kinh tế của các tổ chức tài chính nước ngoài cũng đều nhận định tình hình trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, là thân chủ của họ, liệu có ai phân tích triển vọng kinh tế vì lợi ích chung của đất nước, của những người dân bình thường, trong tay không có đồng đô-la hay tờ cổ phiếu nào?

Có lẽ khi đặt vấn đề như thế, chúng ta sẽ dễ tiếp nhận các thông tin trái chiều hiện đang tạo ra những hiệu ứng tâm lý khác nhau. Trong khi nội dung chính của các báo cáo từ nước ngoài tập trung vào chuyện tài chính, điều chúng ta cần hiện nay là một bức tranh tổng thể của nền kinh tế, dựa vào các yếu tố căn bản hơn. Điều đáng nói là phân tích của các chuyên gia nước ngoài, cả ở các định chế quốc tế và các hãng tư vấn đầu tư đã có sự đảo chiều, chừng mực hơn, sâu hơn vì dựa vào nhiều thông tin hơn trong tuần trước so với thời gian trước đó.

Về nhập siêu, sau khi đạt mức kỷ lục 14,4 tỷ đô-la sau năm tháng đầu năm 2008, tình trạng nhập siêu đang ở xu hướng giảm do nhiều yếu tố khác nhau. Với ảo tưởng giàu có nhờ cổ phiếu lên giá mạnh trong năm ngoái, nhiều người đã chi tiêu mạnh tay thể hiện qua các con số nhập khẩu xe hơi, hàng tiêu dùng đắt tiền… Nay ảo tưởng đã biến mất, tiền bạc khan hiếm, chắc chắn người ta sẽ không còn ồn ạt nhập hàng như những tháng đầu năm. Thị trường địa ốc trầm lắng cũng sẽ giảm cầu vật liệu xây dựng. Đã có những tin tức rải rác cho thấy điều đó như ô-tô nhập về không bán được, thép nhập về nay lại chuẩn bị xuất ngược trở lại. Ngay cả số lượng ô tô lắp ráp trong nước bán trong tháng Năm giảm gần 1.800 chiếc so với tháng trước, sẽ làm giảm linh kiện nhập khẩu. Với tỷ giá đang biến động theo hướng đô-la Mỹ lên giá so với tiền đồng, nhà nhập khẩu sẽ khó mua đô-la hơn và hàng nhập sẽ đắt hơn nên xu hướng chung là nhập khẩu sẽ giảm.

Vấn đề ở chỗ làm sao để khuyến khích mạnh hơn nữa xuất khẩu để giảm nhập siêu khi nhiều mặt hàng xuất khẩu cũng đang phụ thuộc đầu vào là nguyên liệu nhập khẩu. Sự linh hoạt trong tỷ giá chính là cách giúp nâng tính cạnh tranh của hàng Việt Nam ở nước ngoài – một sự linh hoạt định giá tiền đồng dựa vào cả rổ tiền các ngoại tệ là bạn hàng của Việt Nam chứ không chỉ đồng đô-la Mỹ. Chính sách thắt chặt tiền tệ và tài chính công nếu thực thi nghiêm chỉnh và kiên quyết cũng sẽ giúp giảm áp lực nhập siêu trong những tháng cuối năm. Thực tế, nhập siêu đang giảm: tháng 3 là 3,3 tỷ đô-la, tháng 4 còn 2,8 tỷ đô-la và tháng 5-2008 giảm tiếp còn 2,6 tỷ đô-la. Mức giảm này cần phải đẩy mạnh hơn nữa để tạo ra tác động tích cực lên các chỉ tiêu khác, nhất là lên cân đối cán cân thanh toán.

Về lạm phát, thật khó lòng cho Việt Nam khi đưa ra các biện pháp kiềm chế lạm phát trong bối cảnh giá xăng dầu và giá lương thực tăng cao ở khắp thế giới, cũng tạo ra nỗi lo lạm phát cho nhiều nước khác trong khu vực. Tuy nhiên, như nhiều người đã từng nói trước đây, lạm phát ở Việt Nam cao hơn nhiều do chính sách tiền tệ nới lỏng trong những năm trước. Nay khi tín dụng bị thắt chặt, cung tiền tăng không đáng kể thì lạm phát sẽ có xu hướng dịu xuống trong những tháng tới khi chính sách này bắt đầu có tác dụng. Số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy cung tiền đã giảm 10% so với cùng kỳ, phù hợp với mức tăng nhập khẩu đang chậm lại tương ứng. Theo báo cáo “Taking Stock” của WB tại hội nghị giữa kỳ các nhà tài trợ, nếu loại trừ yếu tố lương thực, tốc độ tăng giá đang giảm dần từ tháng Ba.

Điều cần lưu ý là kỳ vọng về lạm phát của người dân đóng vai trò quan trọng quyết định xu hướng giá cả. Vì thế, phải gắn chính sách lãi suất với việc kiềm chế lạm phát – lãi suất phải được nâng mức thực dương lên để người dân yên tâm gởi tiền vào ngân hàng, từ đó chính sách tiền tệ mới có tác dụng nhanh.
Về các chỉ số khác, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản vẫn tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, dường như Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội giá lương thực, thực phẩm trên thế giới đang tăng cao nên người nông dân chưa hưởng lợi bao nhiêu, lại đang chịu khó khăn do doanh nghiệp không có vốn mua hàng của họ để xuất khẩu. Giá trị sản xuất công nghiệp vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng của năm ngoái (16,4% cho năm tháng đầu năm) trừ ngành xây dựng.

Điểm đáng lưu ý là WB trong tài liệu nói trên nhấn mạnh cho dù Việt Nam cố tình giảm tốc độ tăng trưởng GDP năm nay còn 7%, với quán tính tăng trưởng mạnh đến 8,4% trong năm ngoái, GDP năm 2008 vẫn sẽ tăng cao hơn con số Việt Nam mong muốn. “Cho dù tốc độ phát triển ngành xây dựng giảm còn 0% trong những tháng còn lại trong năm và các ngành khác duy trì tốc độ tăng của quý 1, tăng trưởng GDP sẽ vào khoảng 7,5% trong năm 2008” – báo cáo viết. Nhấn mạnh điều này là để nói cho dù cuộc chiến kiềm chế lạm phát phải trả giá, về ngắn hạn, cái giá cũng không đến nỗi quá cao và Chính phủ cần phải cương quyết nói không với áp lực duy trì tăng trưởng từ các ngành và nhất là các địa phương.

Vì tâm lý đang đóng vai trò quan trọng trong ổn định thị trường, chúng ta cũng nên điểm lại một số yếu tố tài chính, tiền tệ để có cái nhìn khách quan đến mức có thể được.

Về cán cân thanh toán, theo thông tin từ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong buổi nói chuyện với ông David Fernandez, kinh tế trưởng JP Morgan Chase, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam là 20 tỷ đô-la tính đến năm 2007, cộng thêm gần 1 tỷ đô-la sau năm tháng đầu năm nay. Cũng theo Thủ tướng, cán cân thanh toán năm 2008 sẽ thặng dư từ 2 đến 3 tỷ đô-la. Nên nhớ chỉ tính riêng giải ngân các dự án FDI hiện nay cũng đã trên 1 tỷ đô-la mỗi tháng.
Báo cáo của WB cũng cho thấy những con số tương tự: thâm hụt tài khoản vãng lai trong năm 2008 ước tính khoảng 11,3 tỷ đô-la sẽ được bù đắp bởi thặng dư tài khoản vốn chừng 14,8 tỷ, để cán cân thanh toán sẽ thặng dư dưới dạng dự trữ ngoại tệ khoảng 3,4 tỷ đô-la. Đây chính là những con số mà thị trường đang cần để bác bỏ những đồn đoán về khủng khoảng cán cân thanh toán của Việt Nam (xem bảng). Tuy nhiên, ở góc độ này, thị trường đang cần sự điều hành linh hoạt về tỷ giá để góp phần vào việc giảm nhập siêu, tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam, nâng thu nhập cho công nhân khối FDI mà mức lương tối thiểu đang được tính theo tiền đô-la và tước bỏ những vũ khí đầu cơ của giới tài chính nước ngoài. Tỷ lệ lạm phát cũng phải được tính đến khi điều hành tỷ giá, không chỉ với đô-la Mỹ mà còn với các ngoại tệ khác nữa.

Cán cân thanh toán của Việt Nam (triệu đô-la Mỹ)
2007 2008 (dự báo)
A. Cân đối tài khoản vãng lai -6.992 -11.346
Cân đối thương mại (giá FOB) -10.360 -16.207
Chuyên chở, bảo hiểm, dịch vụ -894 -908
Chuyển lợi nhuận FDI về nước -2.168 -2.432
Kiều hối 6.430 8.200
B. Cân đối tài khoản vốn 17.541 14.847
FDI (giải ngân) 6.550 5.800
Vay trung và dài hạn 2.045 2.468
Vay ngắn hạn 79 94
Đầu tư tài chính 6.243 1.985
Tiền gởi 2624 4500
C. Sai số -381 0
D. Cân đối tổng thể (=A+B+C) 10.168 3.501
Trong đó. tăng dự trữ ngoại hối 10.144 3.475
Nguồn: NHNN năm 2007 và dự báo của WB cho năm 2008.

Về tác động tới người dân, các nhóm lợi ích liên quan đến tài chính có tiếng nói khá mạnh, dù công khai hay không công khai trong khi các nhóm lợi ích đại diện cho người dân nghèo, nhất là nông dân, hầu như không tồn tại. Vì thế, thực thi chính sách cần lưu ý để không bị tác động trước mắt hay áp lực của nhà đầu tư nước ngoài. Tuyên bố không phá giá tiền đồng đột ngột là theo hướng đó vì phá giá tiền đồng sẽ tác động mạnh lên lạm phát, làm chính sách thắt chặt tiền tệ khó thực thi hơn và nạn nhân chịu tác động lớn nhất vẫn là người nghèo sống bằng thu nhập tính từng tháng hay từng vụ mùa. Đến 73% dân số đang sinh sống ở nông thôn. Nếu chính sách quay về với cơ bản nâng cao sức mua của nông dân, chính thị trường trong nước sẽ là chỗ dựa vững chắc cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Cuối cùng, về dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, hiện nay nhà đầu tư nước ngoài chỉ nắm khoảng 25% cổ phần của các công ty niêm yết, cả thị trường chính thức và thị trường OTC. Như vậy tổng cộng dòng vốn gián tiếp khoảng 7-8 tỷ đô-la và đa số là loại vốn của các quỹ đóng, không thể rút đi được. Chỉ còn khoảng 2,5 tỷ đô-la vốn nóng cộng với khoảng 5 tỷ đô-la trái phiếu mà người nước ngoài đang nắm giữ. Dragon Capital nhận xét: “Dự trữ ngoại tệ bằng 360% các món nợ nóng nước ngoài”. Các loại thông tin về tỷ giá tiền đồng/đô-la Mỹ dạng NDF tăng cao không liên quan gì đến tỷ giá thực vì chúng chỉ là dạng hợp đồng triển kỳ, mang tính cá cược, đến hạn không thanh toán mà chỉ chung chi phần chênh lệch thiệt-hơn. Hàng loạt thông tin như thế cần giải thích cặn kẽ với người dân bởi biến động trên thị trường chứng khoán, ngoại hối chủ yếu do tâm lý nhà đầu tư trong nước.

Điều quan trọng nhất là một khi chúng ta đã xác định nguyên nhân của tình hình hiện nay là do chính sách tiền tệ, tài khóa và đầu tư của các tập đoàn nhà nước, cần nhất quán và kiên định với các giải pháp đưa ra. Cũng cần lưu ý làm sao để giảm tác động của các hoạt động tài chính lên hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế. Hai bên có mối quan hệ mật thiết nhưng dù sao ở Việt Nam, hoạt động tài chính chỉ mới nổi lên một hai năm gần đây. Giải tỏa vấn đề tâm lý chính là ở chỗ phân định đâu là ưu tiên cần làm với hai lãnh vực này.

Box
16 tỷ đô-la bay hơi đi đâu
Tính toán của WB cho biết thị trường chứng khoán Việt Nam đã mất đi 16 tỷ đô-la so với thời điểm đầu năm. Tuy nhiên, cần thận trọng khi sử dụng cách nói này. Lấy ví dụ công X, lúc mới lên sàn giá trị sổ sách là 100 đồng, giá trị vốn hóa là 1.000 đồng. Sau một thời gian, vì giá cổ phiếu X sụt giảm nên giá trị vốn hóa chỉ còn 200 đồng. Chúng ta có thể nói 800 đồng đã bay hơi nhưng 800 đồng đó chỉ là vốn ảo. Đầu tiên, hầu hết các công ty niêm yết ở Việt Nam vẫn cổ đông lớn nhất là Nhà nước, số cổ phiếu này hầu như không được giao dịch. Với nhiều cổ đông khác, cổ phiếu cũng được nắm giữ dài hạn ngay từ đầu nên cho dù có lúc tổng giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam lên đến gần 29 tỷ đô-la thì chỉ có một lượng nhỏ cổ phiếu được đưa ra giao dịch. Với từng nhà đầu tư thứ cấp thì rõ ràng tiền mất ở người này đã chạy sang túi của người khác.
Dù vậy, cách nói 16 tỷ đô-la không cách mà bay cũng giúp chúng ta hình dung được cái ảo tưởng giàu có của nhiều người trong năm qua. Ảo tưởng này có cả từ những cổ đông là tập đoàn nhà nước có đầu tư tài chính ở công ty khác – dù vốn trên sổ sách vẫn giữ nguyên nhưng vốn tính theo giá thị trường bỗng tăng nhiều lần. Sự giàu có bất ngờ này đã thúc đẩy họ vay vốn và đầu tư tràn lan. Ở nhà đầu tư cá nhân cũng vậy, khi thấy mình bỗng giàu lên nhanh chóng, họ rất dễ có xu hướng chuyển sang đầu tư địa ốc và mua sắm đồ dùng đắt tiền. Sự ảo tưởng này đã góp phần gây ra những khó khăn của nền kinh tế hiện nay.

Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2008

Su bat luc la cua tat ca

Sự bất lực là của tất cả

Nguyễn Vạn Phú

Phê phán việc chêm từ tiếng Anh vào văn viết hay văn nói, nhất là của giới trẻ là chuyện dễ làm, lại thường được sự đồng tình của mọi người. Nhưng tìm cho ra các biện pháp thay thế mới là chuyện đại khó.

Có lẽ phải phân biệt các trường hợp chêm từ tiếng Anh để dễ thảo luận. Cách viết như “Ngành tin học đang là ngành hot hiện nay”, “Một phong cách rất xì-tin” là sai hoàn toàn rồi. Cũng vậy, lối nói chêm thêm tiếng Anh một cách vô tội vạ của khá nhiều bạn trẻ hiện nay (tôi thấy không có problem gì) chỉ là biểu hiện của một sự lười nhác tư duy ngôn ngữ ở họ - và chính họ sẽ bị người nghe đánh giá trình độ qua cách nói nửa Tây nửa ta không giống ai này.

Ở đây chỉ xin nói về những trường hợp chẳng đặng đừng phải dùng tiếng Anh vì nếu cố ý dùng tiếng Việt sẽ bị xem là không giống ai. Ví dụ về loại từ này khá nhiều, nhất là trong tin học. Giả thử bạn viết: “Hôm qua tôi đã gởi thư điện tử cho anh rồi đấy”, chắc chắn người tiếp nhận thông tin phải ngẩn người một lúc vì hiện nay ai nấy đều dùng từ gởi email hay gởi mail một cách thoải mái như thể nó là từ tiếng Việt. Trong văn tài chính, chứng khoán cũng đã xuất hiện nhiều từ không thể nào dùng tiếng Việt thuần túy. Ngay chính văn bản nhà nước cũng dùng từ IPO (phát hành cổ phần lần đầu tiên ra công chúng) mà không chú thích gì cả. Có lẽ người nào cẩn thận lắm cũng chỉ viết “Tổng thu nhập quốc dân” một lần rồi mở ngoặc và sau đó sẽ dùng từ GDP cho gọn và cho mọi người dễ tiếp nhận thông tin (chứ không thể viết tắt TTNQD).

Người viết bài này rất dị ứng với thái độ xem ngôn ngữ là một cái gì đó bất di bất dịch, phải tuân theo quy luật, quy tắc. Chẳng hạn, có thời có người khăng khăng đòi phải viết “chúng cư” mới chính xác thay vì “chung cư” vì “chúng cư” mới đúng là từ Hán Việt mang nghĩa “nơi ở của nhiều người”. Quan điểm này không đợi ai phản đối cũng đã bị cuộc sống gạt sang một bên, đơn giản vì ngôn ngữ có đời sống riêng của nó, cũng tiến hóa, cũng có chọn lọc sinh tồn.

Vì thế, một khi một từ ngoại nhập nào đó được số đông chấp nhận, đã đi vào cuộc sống một cách suôn sẻ thì cách tốt nhất là chấp nhận nó, đưa nó vào kho từ vựng tiếng Việt của chúng ta.

Vấn đề ở chỗ nếu cứ suy theo quy luật này, hóa ra cách nói nửa Tây nửa ta ở đầu bài cuối cùng cũng phải chấp nhận hay sao? Không lẽ thấy một người nói “Tớ không sure cho lắm”, chúng ta không thấy có vấn đề gì cả sao? Nếu chúng ta dùng từ IPO trong văn phong kinh tế không chút áy náy thì biết lấy lý do gì để phê phán cách dùng từ “teen” như trên nhiều tờ báo nhắm đến độc giả trẻ?

Ngày xưa, những học giả xuất sắc như Giáo sư Hoàng Xuân Hãn với tác phẩm “Danh từ khoa học” đã giúp đặt ra, phổ biến, san định cách dùng những từ tiếng Việt mới, giúp tạo ra sự thống nhất trong cách dùng từ và làm phong phú kho từ vựng tiếng Việt. Ngày nay những công trình như thế rất hiếm hoi, nếu không nói là hầu như vắng bóng. Những nỗ lực của từng cá nhân hay từng nhóm không đem lại sự thống nhất như thế và rất nhiều từ không được cuộc sống thừa nhận để sử dụng rộng rãi. Ví dụ đối với file đã có những từ tiếng Việt như “hồ sơ”, “tệp tin”, “tập tin” nhưng thử hỏi ngoài sách tin học, có ai trong ngôn ngữ thường ngày, kể cả nói lẫn viết, dùng chúng một cách thoải mái không.

Như vậy, trước khi trách cứ việc sử dụng tiếng Việt chêm tiếng Tây vô tội vạ, thiết nghĩ xã hội cần những phong trào thực chất với những công trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu để làm công việc “san định” như Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từng làm. Hiện nay từ ngữ trong những lãnh vực như quản trị kinh doanh, tài chính-chứng khoán, ngân hàng… còn rất mông lung, mỗi tác giả dùng một cách, không ai chịu ai. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy các bài viết nghiêm túc đều phải mở ngoặc chú thích thêm tiếng Anh hoặc tiếng Pháp sau một từ chưa được thừa nhận phổ biến. Trong khi đó các cuốn tự điển Anh-Việt đều dường như ngừng lại với nghĩa đã dùng cách đây vài chục năm; ít có tự điển nào ra ấn bản mới cập nhật hằng năm, tìm cách dịch hay thêm nghĩa mới cho những từ được dùng theo nghĩa mới.

Sẽ có người lập luận, ngôn ngữ là một cơ chế tự sàng lọc, những từ “lai căng” sẽ bị đào thải, mọi việc đâu sẽ vào đó. Nhưng nếu không có sự chủ động thúc đẩy sự sàng lọc này, chính chúng ta đang tỏ ra bất lực chứng kiến sự nghèo đi của ngôn ngữ và kèm theo đó là sự nghèo đi của một nền văn hóa.

Như là một khởi đầu, xin đề nghị các tờ báo lớn (kể cả các đài truyền hình) ngồi lại với nhau, thảo luận và thống nhất cách dùng từ trong một số trường hợp đang gây tranh cãi. Sau một thời gian có thể mở rộng ra để thống nhất cách viết chuẩn, quy định loại trừ những cách dùng tiếng Việt sai, những lối nói làm hỏng sự trong sáng của tiếng Việt. Đây chính là lực lượng có tác động mạnh đến việc chấp nhận hay không chấp nhận một cách dùng từ của cả xã hội. Khi báo chí vẫn còn viết “các fan hâm mộ” (vừa chêm tiếng Anh, vừa thừa) thì không trách gì các ca sĩ sẽ lười suy nghĩ và dùng ngay các từ như live show cho khỏe. Nghĩ cho ra những từ thay thế cho những từ như thế mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa người viết muốn nói là chuyện khó chứ không phải cứ lấy tự điển ra tra cứu và thay thế là xong. Stress là stress chứ không thể dùng “căng thẳng” để thay thế, chẳng hạn.

Nhưng để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt một cách bền vững và khoa học, cần có những nỗ lực ở cấp quốc gia, những nghiên cứu ở các viện ngôn ngữ để làm sao có sự sàng lọc định kỳ, công bố những từ mới được sử dụng rộng rãi, có thể xem là tiếng Việt (để tránh sự dè bỉu một cách không thực tế như trường hợp từ “chúng cư”), hay những từ thuần Việt được sử dụng theo nghĩa mới…

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2008

Ai quyet dinh chi tieu GDP

Ai quyết định “chỉ tiêu” GDP?

Nguyễn Vạn Phú

Đã mấy năm rồi, Trung Quốc cố gắng giảm mức tăng GDP để giảm độ nóng của nền kinh tế phát triển quá mức. Nhưng dù tìm cách đưa ra nhiều biện pháp, GDP của nước này vẫn tăng cao hơn mức họ mong muốn cả vài điểm phần trăm. Ngược lại, những nước đã phát triển như Nhật, muốn GDP tăng chỉ nửa điểm phần trăm thôi cũng đã khó.

Nói chuyện này để thấy tăng trưởng GDP đâu phải là một chỉ tiêu chủ quan, muốn như thế nào sẽ được như thế đó. Chưa thấy nước nào lấy một con số tăng trưởng GDP cụ thể làm mục tiêu mang tính pháp lệnh (do Quốc hội thông qua) như ở nước ta. Có chăng, đầu năm chính phủ các nước đưa ra dự báo để các thành phần kinh tế dựa vào đó mà hoạch định chiến lược trong năm. Và trong năm, thỉnh thoảng họ điều chỉnh dự báo này, cũng nhằm mục đích giúp mọi chiến lược kinh tế - xã hội sát với thực tế hơn. Ví dụ Thủ tướng Lý Hiển Long của Singapore đầu tháng này đưa ra dự báo GDP của Singapore sẽ tăng chậm cho đến hết năm 2009. Mức dự báo cũng rất rộng cho năm 2008 – từ 4% đến 6%. Còn Ngân hàng trung ương Nhật Bản cũng vừa điều chỉnh dự báo GDP nước này sẽ tăng 1,5% thay vì mức 2,1% dự báo trước đó mấy tháng.

GDP là do người dân và doanh nghiệp, kể cả dân doanh hay quốc doanh, kể cả trong nước hay nước ngoài, tạo ra. Hoạt động kinh tế tạo ra mức tăng GDP không phải là hoạt động trực tiếp của Chính phủ, càng không phải của các đại biểu Quốc hội – làm sao những nơi này có thể định ra một mức tăng GDP chủ quan được.

Tuy nhiên cũng đúng là mức tăng GDP tùy thuộc rất nhiều vào các chính sách kinh tế của Chính phủ hoạch định hay do Quốc hội thông qua. Hiện nay, nền kinh tế phát triển quá nóng của Việt Nam trong năm 2007 đang gây ra những vấn đề lớn đặc biệt là lạm phát và nhập siêu. Mong muốn của Chính phủ là giảm sự tăng trưởng quá nóng này, ví dụ tốc độ tăng trưởng tín dụng hay đầu tư nhà nước, để giải quyết vấn đề lạm phát. Và một hệ quả có thể dự báo trước là mức tăng GDP năm nay, vì thế sẽ giảm.

Thay vì bàn luận, tranh cãi việc có nên giảm “chỉ tiêu” tăng trưởng GDP xuống còn 7% như đề nghị của Chính phủ hay không, các đại biểu Quốc hội nên yêu cầu Chính phủ làm rõ những biện pháp nào sẽ được thực hiện để đưa ra con số dự báo 7% này. Các biện pháp đó phải được định lượng cụ thể, ví dụ tăng trưởng tín dụng còn bao nhiêu (và có đạt được mức tối đa 30% như dự kiến không khi 4 tháng đầu năm đã tăng 14% trong khi cùng kỳ năm 2007 chỉ tăng 9%); đầu tư công giảm bao nhiêu, giảm ở những dự án nào (khi đã đến tháng 5 rồi mà tiêu chí xác định dự án công cần cắt giảm vẫn chưa có); thuế nhập khẩu và các loại thuế nội địa khác sẽ như thế nào để hạn chế nhập siêu…. Điều Quốc hội cần quyết là các biện pháp đó chứ không phải con số phần trăm tăng trưởng GDP – một con số đến sau như hệ quả của chính sách.

Tăng trưởng GDP, như đã được phân tích nhiều, chưa hẳn đã đem lại lợi ích cho xã hội vì những dự án lãng phí cũng được tính vào GDP. Thay vì chú tâm đến con số này, Quốc hội nên bàn và có chủ trương giảm bớt khó khăn cho đại đa số người dân đang ngày đêm xoay xở với vật giá leo thang, cho doanh nghiệp đang đương đầu với nhiều khó khăn vì làm ăn ngày càng khó.

Thứ Ba, 13 tháng 5, 2008

Dai dien cho cong luan

Họ chỉ là đại diện của công luận

Nguyễn Vạn Phú

Có hai vấn đề nổi lên từ sự việc hai nhà báo Nguyễn Văn Hải (báo Tuổi Trẻ) và Nguyễn Việt Chiến (báo Thanh Niên) bị bắt hôm thứ Hai vì tội “lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Họ bị bắt vì đưa tin bài về vụ được cho là tham nhũng tại Ban Quản lý dự án 18 (PMU 18).

Trước hết, phải nhìn thẳng vào một cái yếu của làng báo Việt Nam: bị nguồn tin chi phối. Chuyện này không lạ và khá phổ biến. Đôi lúc chỉ nghe một nguồn tin, phóng viên có thể viết một bài ảnh hưởng đến người thứ ba mà không phối kiểm nguồn tin và đặc biệt, khi là tin mang tính phê phán, nhiều phóng viên ít lúc nào hỏi thẳng từ người bị phê phán. Một số bài mang danh là điều tra nhưng thật sự chỉ là chép từ hồ sơ vụ án đang thụ lý. Điều nguy hiểm là từ những thông tin loại này, những người viết báo không chuyên có thể bình luận, lên án người trong cuộc thành một áp lực dư luận mạnh mẽ có thể nhấn một con người tận bùn sâu. Vụ PMU 18 là một trường hợp phức tạp – cho đến nay không ai trong giới nhà báo có thể nói là đã nắm rõ mọi tình tiết. Và vì thế, đã xảy ra sai sót, đã có đính chính. Nhà báo Nguyễn Văn Hải trong một nhận xét (comment) trên blog của đồng nghiệp từ ngày 5-10-2007 đã viết: “Trong dòng thông tin ầm ầm tuôn chảy ở vụ PMU18, có nhiều lý do để báo chí bị cuốn theo, và không phải ai cũng nhận ra được mình bị "cuốn đi" như thế nào - trong đó có tôi”.

Dù gì đi nữa, cái yếu kia, giả thử hai nhà báo trên (đây chỉ là giả thử như vậy) có mắc phải, nó cũng không phải là tội hình sự. Với những thông tin đã công khai trên hai tờ Tuổi Trẻ và Thanh Niên hôm thứ Ba, có thể nói hai nhà báo đã dựa vào nguồn tin để đưa tin, viết bài sai mà sau đó các báo đã đính chính. Đấy là sai sót nghiệp vụ, rất đau xót trong nghề báo vì loại sai sót này có thể ảnh hưởng đến người khác. Chính anh Hải đã viết: “Tôi đau và thấm thía”. Nhưng không thể xem đó là tội “lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Giả thử báo Tuổi Trẻ, báo Thanh Niên đưa tin sai, người bị thiệt hại kiện ra tòa án dân sự, phóng viên phải hầu tòa và chịu trách nhiệm về ngòi bút của mình, thiết nghĩ các phóng viên bị bắt hồi đầu tuần và cả làng báo Việt Nam sẽ “tâm phục, khẩu phục”. Cứ ra trước tòa đối chất, nói hết lý lẽ để nếu nhà báo quên chuyện phối kiểm nguồn tin, họ sẽ được bài học nhớ đời. Nhưng đây là một cuộc điều tra do ngành công an tiến hành, có họp báo, có công bố thông tin – không lẽ nhà báo, người đại diện cho công luận, đem thông tin đến cho công luận lại bị buộc tội “lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Cái sai nếu có là từ nguồn tin có thẩm quyền chứ không phải từ người chuyển tải thông tin.

Chúng tôi nghĩ với việc bắt giam hai nhà báo, cơ quan điều tra cần có một giải thích rõ ràng, sòng phẳng, không chỉ cho bản thân các nhà báo mà còn cho công luận đang trông chờ nhà báo hằng ngày, hằng giờ đem thông tin đến cho họ.

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2008

Hu nhau bang Google

Hù nhau bằng Google

Nguyễn Vạn Phú

Dạo này có khá nhiều bài viết, phát biểu hay nhận xét bắt đầu bằng một câu, đại ý nếu vào Google, gõ dòng chữ xxx, thì xuất hiện cả ngàn (chục ngàn hay cả triệu) trang.

Ví dụ, đây là câu mở đầu bài viết “Gu thời trang của MC Thanh Bạch” trên tờ Thời Trang Trẻ: “Cho đến hôm nay, khi nhắc đến Thanh Bạch, báo chí dường như không bỏ sót bất kỳ một chi tiết nào có liên quan đến anh. Chỉ cần gõ từ khóa "Thanh Bạch" và search trên Google, bạn sẽ thấy có 353.000 kết quả chỉ trong 0,19 giây”.

Còn đây là câu đầu tiên của bài “Há cảo” trên tờ Sài Gòn Tiếp Thị: “Vào Google gõ một cái thì há cảo tràn ra cả mấy chục trang”. Tờ Nghề báo số mới nhất cũng có bài bắt đầu theo lối này: “Vào Google, gõ vào dòng chữ “Công ty truyền thông”, trong vòng 0,33 giây, công cụ tìm kiếm trực tuyến này sẽ cho ra 1.440.000 trang web có chuỗi ký tự ấy”.

Nói vậy mà không phải vậy

Có lẽ điều đầu tiên nhiều người sử dụng Google đã biết là khi tìm một cụm từ, nếu chúng ta để cụm từ này trong ngoặc kép, kết quả sẽ khác hẳn so với không để ngoặc kép. Ví dụ với cụm từ “công ty truyền thông”, nếu tìm theo cách thứ nhất, kết quả chỉ là 676.000 trang so với 1.630.000 trang nếu tìm theo cách thứ hai. Vì khi không để trong ngoặc kép, Google sẽ tìm bất kỳ trang web nào có chứa các từ đó, bất kể chúng ở xa nhau tít mù. Xem một trang ngẫu nhiên trong danh sách tìm kiếm theo cách thứ hai, chúng ta sẽ thấy các từ được tìm nằm trong các cụm từ không liên quan gì, như “thông thường”, “dữ liệu truyền”, “có công”…

Thứ nữa, Google là một công cụ tìm kiếm thông tin rất thông minh - nó trả về kết quả theo thói quen của những người tìm kiếm trước đó (tìm cụm từ “Nguyễn Việt Tiến”, nó sẽ cho kết quả ở những trang đầu tiên liên quan đến ông Nguyễn Việt Tiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải chứ không phải một Nguyễn Việt Tiến bất kỳ vì chính đây là tên được nhiều người trước đó tìm kiếm nhiều). Tuy nhiên, chính điều này làm kết quả tìm kiếm sai lạc không thỏa mãn người cần tìm thông tin. Ví dụ, với từ “há cảo”, đa phần các trang kết quả nói về hệ điều hành Hacao Linux (đây là cụm từ được tìm nhiều hơn món ăn há cảo). Và khi “tiền sử” tìm kiếm của mọi người là như nhau, không có một xu hướng nào vượt trội thì kết quả không phân biệt nghĩa của từ này với từ khác. Trong 353.000 trang có cụm từ “Thanh Bạch”, sẽ có rất nhiều trang có cụm từ này nhưng dùng với nghĩa “trong sạch và giữ được tiết tháo”. Chú ý, nếu dùng Google bình thường kết quả sẽ khác với khi dùng Google Toolbar. Với Google Toolbar, kết quả dựa vào các lần tìm kiếm trước đó nhiều hơn bội lần.

Như vậy chúng ta có thể kết luận các cách nói như minh họa ở đầu bài không chính xác, không có ý nghĩa thống kê gì hết cho dù cụm từ được tìm kiếm đã được cẩn thận bỏ trong ngoặc kép. Tốt nhất nên bỏ lối so sánh này vì nó rất sai lạc mà lại thường được dùng để chứng minh cho một điểm nào đó.

Tìm là thấy

Với những người dùng Google để tìm kiếm thông tin thật sự, những thủ thuật nhỏ, những mánh lới khai thác Google sẽ giúp họ tìm ra thông tin cần tìm nhanh hơn, hiệu quả hơn. Nếu cụm từ mà chúng ta bỏ trong ngoặc kép để tìm càng dài, càng chi tiết, khả năng tìm đúng ngay thông tin chúng ta cần sẽ cao hơn. Nếu chúng ta thêm thành cụm từ “món há cảo”, kết quả sẽ trả về toàn những trang có nhắc đến món thức ăn này. Cũng có những trang nhắc đến “món há cảo” trong một bút ký hay truyện ngắn, không phải là trang chúng ta cần tìm. Nếu mở rộng thành hai cụm “món há cảo” và “cách chế biến” (cả hai đều để trong ngoặc kép) thì chúng ta sẽ tìm thấy một trong các trang đầu tiên bàn đúng đến thông tin chế biến món ăn này.

Tương tự, với nghệ sĩ “Thanh Bạch”, nếu chúng ta thêm từ MC thành “MC Thanh Bạch”, kết quả sẽ chính xác hơn nhiều. Nói khái quát, chúng ta nên xác định thông tin cần tìm là gì, hình dung trong trang web cần tìm chắc chắn sẽ có những cụm từ nào, xong rồi gõ càng nhiều cụm như thế càng tốt (trong ngoặc kép), cơ hội tìm ra thông tin sẽ nhanh hơn. Nếu cần nên kết hợp nhiều cụm từ, thêm bớt nhiều lần để tinh chỉnh kết quả. Nhiều lúc phải dùng một lúc nhiều thủ thuật (xem chi tiết ở bài bên cạnh) mới tìm ra điều chúng ta cần tìm. Nhiều người cũng hay quên Google có công cụ tìm ảnh riêng, nên vào đây khi muốn tìm ảnh và khi muốn tìm thông tin mang tính thời sự nên vào news.google.com sẽ tìm nhanh hơn, chính xác hơn.

Cũng nên lưu ý, tìm ngay trong các trang web cụ thể, kết quả sẽ chính xác hơn dùng Google. Ví dụ chúng ta biết chắc thông tin cần tìm nằm trong trang web của báo Tuổi Trẻ điện tử, nên vào chính ngay trang này và sử dụng công cụ tìm kiếm của chính trang đó.



Các thủ thuật Google
Các thủ thuật này đã phổ biến trên nhiều trang web, xin tóm tắt những thủ thuật thường dùng nhất. Lúc nào không nhớ hết những thủ thuật này, chúng ta có thể vào phần Google Advanced Search là dễ nhất.
- Dùng dấu -: Đôi lúc Google trả về kết quả theo xu hướng tìm kiếm nên không thỏa mãn nhu cầu của chúng ta. Gặp trường hợp này, nên dùng dấu - trước cụm từ không muốn xuất hiện. Ví dụ muốn tìm người bạn cũ tên “Hồ Ngọc Hà” mà không phải là cô ca sĩ nổi tiếng, cứ thử gõ thêm -“ca sĩ” xem sao.
- Tìm trong tiêu đề: Khi biết chắc thông tin cần tìm xuất hiện trong tiêu đề trang web, chúng ta nên sử dụng cách gõ: intitle:“thông tin cần tìm”.
- Tìm trong một trang web cụ thể: Đôi lúc chúng ta chỉ tìm thông tin trong một trang web đã xác định, lúc đó nên gõ: “thông tin cần tìm” site:địa chỉ của trang web đó. Nhớ là sau dấu hai chấm không có dấu cách.
- Tìm trong một loại tập tin cụ thể: Nếu chúng ta biết mình chỉ cần tìm thông tin đó trong tập tin Microsoft Word (.doc) hay Acrobat (.pdf) thì hãy gõ: filetype:doc “Thông tin cần tìm” hay filetype:pdf “Thông tin cần tìm”.
- Dùng Google như một máy tính bỏ túi: Nếu cần chúng ta cứ gõ ngay vào ô tìm kiếm của Google (ví dụ 2+3 hay 2^20), Google sẽ cho ra kết quả tính toán ngay. Tương tự, nếu chúng ta gõ “3 USD in Vietnamese dong” sẽ thấy trang web này tính toán chuyển đổi ngoại tệ luôn cho chúng ta.

Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2008

Kinh doanh tren cai doi

Kinh doanh trên cái đói

Nguyễn Vạn Phú

Đã dần hiện rõ thủ phạm chính đằng sau cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu hiện nay chính là các quỹ đầu cơ tài chính. Các lý do khác chỉ là thứ yếu hay diễn ra sau.
Trên số báo ra ngày 19-4, tờ Economist cho biết tính từ đầu tháng 1-2008 đến khoảng giữa tháng 4-2008, giá gạo đã tăng 141%, còn tính từ tháng 1-2007, giá gạo đã tăng gần gấp ba lần. Đó là con số chưa cập nhật vì tính đến cuối tuần trước, giá gạo loại thường tại Thái Lan đã vượt quá mốc 1.000 đô-la/tấn; giá gạo Việt Nam thắng thầu cung cấp cho Philippines từ nay đến tháng 6-2008 là 1.200 đô-la/tấn.

Mức tăng khủng khiếp này không thể lý giải bằng quy luật cung cầu thông thường. Jose Graziano, trưởng đại diện Tổ chức Lương Nông Liên hiệp quốc tại châu Mỹ Latinh và vùng Caribbean tuyên bố hôm 10-4 rằng các quỹ đầu cơ toàn cầu và đồng đô-la yếu là tác nhân chính gây ra hiện tượng tăng giá lương thực trên toàn cầu. “Khủng hoảng này là một cuộc tấn công đầu cơ và sẽ kéo dài” – ông nhận định. Đồng đô-la yếu đã làm cho các quỹ đầu cơ đi tìm cơ hội lợi nhuận ở các loại hàng hóa, đầu tiên là dầu mỏ, vàng bạc và nay là lương thực. Việc đầu cơ như thế, dĩ nhiên, cũng xuất phát từ khả năng lương thực tăng giá vì lượng tiêu thụ tăng trong khi sản lượng giảm. Khi đã thấy được khả năng này, các tay đầu cơ ra tay và làm cho diễn biến tăng giá xảy ra nhanh hơn, khốc liệt hơn. Chính phủ các nước, trước mối nguy rủi ro an ninh lương thực, phải có biện pháp đóng cửa thị trường – cung giảm thì chắc chắn giá càng tăng mãnh liệt.

Tờ New Statesman của Anh cũng có lập luận tương tự khi cho rằng sự “thiếu hụt” lương thực là do hiện tượng đầu cơ vào các hợp đồng tương lai sau khi thị trường phái sinh tài chính trong lãnh vực địa ốc sụp đổ. “Liều lĩnh lùng sục các món lời nhanh, giới đầu cơ rút hàng ngàn tỷ đô-la ra khỏi thị trường cổ phiếu và trái phiếu địa ốc rồi đổ chúng vào lương thực và nguyên liệu thô” – tờ này nhận xét và cho rằng tình hình này có thể gây ra nạn đói kém trên quy mô rộng lớn. Nếu trước đây, giới tài phiệt toàn cầu chỉ tập trung vào cổ phiếu hay ngoại tệ, nay đã chuyển sang tìm “công cụ” tích trữ tài sản – từ vàng đến dầu hỏa, từ bắp đến gạo hay lúa mì và có người còn mua bán hợp đồng tài chính dựa vào nước nữa.

Nếu quan sát việc giao dịch vàng trên sàn giao dịch ở TPHCM, chúng ta thấy vàng chỉ là cái cớ, là công cụ, chẳng khác gì “các con súc sắc”. Người ta đặt cược giá lên hay giá xuống để kiếm lời và giá càng lên hay càng biến động chừng nào, người ta càng dễ làm ra tiền chừng đó. Vấn đề ở chỗ nếu là vàng – biến động giá không gây hại đến ai nhưng nếu là gạo – rõ ràng giới đầu cơ đang kinh doanh trên nỗi khổ của một nửa nhân loại, những người đang sống bằng số tiền dưới 2 đô-la mỗi ngày.

Nhớ lại những năm 2000 khi giá cổ phiếu các công ty kinh doanh trên mạng Internet (dạo đó hay được gọi là các công ty dot.com), giới đầu cơ cũng đã đẩy giá của chúng lên tận trời xanh và sau đó bong bóng dot.com sụp đổ. Những năm gần đây là chứng khoán liên quan đến thị trường địa ốc ở Mỹ, nay bong bóng này nổ tung thì xuất hiện vấn nạn lương thực tăng giá.

Cơ chế của việc đầu cơ thông qua các công cụ phái sinh khá phức tạp. Đại khái giới đầu cơ đánh cược rằng giá gạo sẽ tăng và họ sẽ mua những hợp đồng khống thể hiện mức giá tăng này. Nếu thực tế, giá tăng đúng như họ dự báo, họ sẽ thắng lớn. Để phòng tránh rủi ro, họ sẽ đồng thời mua những hợp đồng với giá ngược lại để lỡ giá không tăng như tính toán, họ vẫn không thua lỗ quá nhiều vì thế động cơ thúc đẩy giá tăng càng lớn. Các loại hợp đồng này sẽ loại trừ lẫn nhau nên khi thanh toán, người ta chỉ “chung chi” lời lỗ; chúng không liên quan gì đến gạo hay lúa mì hay ngô thật sự cả. Tất cả chỉ xảy ra trên giấy tờ nhưng mức giá mua bán kiểu đó tác động ngay đến giá thực tế. Khi hàng loại quỹ đầu cơ nhảy vào cùng cược như vậy, giá cả không thể nào không tăng mạnh theo đúng cái thường được gọi là “xu hướng thị trường”.

Xin đưa ra một ví dụ cụ thể. Một hãng xuất khẩu gạo bỗng lo rằng giá gạo giao tháng 8-2008 sẽ giảm, bèn ký hợp đồng giao sau bán 100.000 tấn gạo với giá 1.300 đô-la/tấn. Một nhà nhập khẩu, kỳ vọng ngược lại là giá gạo vào thời điểm đó sẽ lên cao hơn nên sẵn sàng ký hợp đồng mua ngay lô gạo này. Giả thử đến tháng 8-2008, giá gạo tăng thật lên 1.400 đô-la/tấn, rõ ràng nhà nhập khẩu này lãi 100 đô-la/tấn. Nhưng đó chỉ là khởi đầu của câu chuyện đầu cơ. Hiện nay có hàng ngàn nhà nhập khẩu và hàng ngàn quỹ đầu cơ sẵn sàng nhảy vào tranh mua cho bằng được hợp đồng giao sau này. Giả thử một quỹ đầu cơ nào đó mua được hợp đồng này xong, họ sẽ đem nó ra rao bán cho nhà đầu cơ thứ hai, nhà đầu cơ này rao bán cho nhà đầu cơ thứ ba và cứ thế các quỹ cứ mua đi bán lại loại hợp đồng như thế hàng ngày hàng giờ trên khắp thế giới. Tin tức người dẫn phẫn nộ, biểu tình vì giá gạo tăng vọt càng làm các quỹ tranh nhau mua với giá càng cao hơn vì họ tin chắc giá còn tăng nữa.

Tờ BusinessWeek số ra ngày 23-4 đã vẽ chân dung một tay quản lý quỹ như thế - Dwight Anderson, quản lý quỹ Ospraie, quỹ hedge fund chuyên đầu cơ vào lương thực lớn nhất thế giới. Thế nhưng chân dung này chỉ kể lại những câu chuyện đi khảo sát thị trường lương thực của những năm trước vì năm nay Anderson lánh mặt báo chí, thậm chí mua bản quyền hết mọi hình ảnh của ông ta để không báo nào được quyền đăng ảnh mình. Có lẽ tin tức về mức lãi khổng lồ của Ospraie đi kèm với hình ảnh người dân ốm đói chìa tay nhận phần gạo phát chẩn ít ỏi làm ông này xấu mặt.
Hiện nay các ngân hàng đầu tư lớn đều xuất bản đều đặn các bản tin phân tích tình hình tài chính cho thân chủ của họ. Đọc các bản tin này, chúng ta sẽ phần nào hiểu được chuyện gì đang xảy ra đằng sau cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu. Ví dụ một ngân hàng tầm cỡ điểm lại tin Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo, tin mất mùa ở một số nước và đưa ra lời khuyên nên đầu tư vào một số quỹ chuyên mua bán lương thực như vầy, như vầy. Rõ ràng, người dân thế giới càng đói khổ, các quỹ như thế càng trông chờ vào mức lợi nhuận tăng vọt, “so với cùng kỳ năm trước”. Một sự làm giàu không thể chấp nhận được.

Chính vì vậy, lời kêu gọi kiểm soát chặt chẽ các quỹ đầu cơ (hedge funds) đang ngày càng được chú ý. Ngay chính ở Mỹ vào tuần trước, hàng loạt hãng sản xuất lương thực lớn lên án các quỹ đầu cơ gây ra bất ổn trên thị trường vì dù giá lên, đa phần lợi nhuận rơi vào tay các quỹ này do cơ chế hợp đồng tương lai. Họ cho rằng việc đầu cơ vào các hợp đồng giao sau đang phá vỡ thị trường, quy luật cung cầu không còn phát huy tác dụng. Ủy ban Giao dịch Hợp đồng Hàng hóa triển kỳ triệu tập nhiều quỹ đầu cơ đến giải trình. Hiện đang có ít nhất 8.000 quỹ như thế với khoản tiền gần 2.000 tỷ đô-la để khuấy đảo thị trường. Vì thân chủ của chúng là các nhà đầu tư tổ chức và các cá nhân tỉ phú, chúng không bị buộc tiết lộ thông tin hay báo cáo hoạt động như các quỹ đại chúng.
Điều nguy hiểm là cũng như bóng bóng dot.com, địa ốc đã xẹp, bong bóng giá lương thực cũng đến lúc nổ tung – khả năng giá xẹp nhanh dễ xảy ra vì giới đầu cơ đang bị áp lực dư luận quốc tế bắt đầu lên án. Họ sẽ xoay qua kinh doanh trên xu hướng giá giảm. Nếu điều này xảy ra sẽ là đại họa ở chiều hướng khác. Hiện nay nhiều nước đã lên kế hoạch tăng diện tích canh tác; giả thử cung vượt cầu một chút thôi, bong bóng lương thực xẹp nhanh sẽ dìm giá nông sản xuống vực – lúc đó cũng chính người nông dân sẽ đói trên cánh đồng trĩu lúa của mình.

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2008

Buong nhiem vu quan ly

Buông nhiệm vụ quản lý

Nguyễn Vạn Phú

Diễn tiến trong thời gian gần đây buộc chúng ta phải đặt câu hỏi liệu một số bộ, ngành trong bộ máy nhà nước có đang buông nhiệm vụ quản lý của mình.

Dễ thấy nhất là chuyện lãi suất. Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị vào ngày 7-4 “trước mắt, không duy trì lãi suất huy động trần”. Thế nhưng từ đó đến nay, Ngân hàng Nhà nước, nơi chịu trách nhiệm về chính sách lãi suất lại không có một động tĩnh gì, từ việc xác định Công điện 02 ấn định trần lãi suất 12% có còn hiệu lực không đến việc giải thích cho khối ngân hàng cũng như cho người dân định hướng lãi suất sắp tới như thế nào. Trong thông báo gởi cho báo chí ngày 18-4, Ngân hàng Nhà nước không dành một dòng nào để nói về băn khoăn lãi suất trần của nhiều ngân hàng đã lên tiếng trước đó. Ở đây có hai vấn đề: về quản lý nhà nước, lẽ ra Ngân hàng Nhà nước phải linh hoạt sử dụng công cụ lãi suất để điều hành thị trường tiền tệ nhưng lại nhường vai trò này cho một thỏa thuận không mang tính pháp lý của Hiệp hội Ngân hàng. Về mặt công luận, lẽ ra Ngân hàng Nhà nước phải phân tích cho người dân thấy lãi suất ở các ngân hàng với quy mô khác nhau, uy tín cũng như bề dày khác nhau thì sẽ khác nhau. Người nào ngại rủi ro sẽ gởi tiền vào ngân hàng lớn, đang chào lãi suất vừa phải; người nào thích mạo hiểm cứ nhắm đến các ngân hàng nhỏ, mới ra đời để hưởng lãi suất cao, kèm theo là mức rủi ro cao hơn. Có như thế mới hình thành một thị trường lành mạnh, có cạnh tranh để nâng cao năng lực, chứ không lẽ như hiện nay ngân hàng nào cũng như nhau. Vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước ở đây chính là sự phân loại các ngân hàng, là buộc họ cung cấp thông tin công khai cho người gởi tiền biết và cân nhắc chọn lựa. Một sự im lặng từ Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt từ người đứng đầu, chính là biểu hiện của sự buông quản lý.

Một bộ khác cũng lơ là hay hiểu sai nhiệm vụ quản lý của mình khá rõ nét là Bộ Y tế. Với bệnh tả, thay vì tập trung vào các biện pháp phòng chống đã trở thành kinh điển trên khắp thế giới, các cơ quan trực thuộc Bộ cứ thỉnh thoảng tung ra các tin “giật gân” không đâu vào đâu, như tin tiền giấy nhiễm vi khuẩn!!! Nhiệm vụ của Bộ Y tế lúc này là phải nhanh chóng in hàng triệu tờ rơi, tuyên truyền hướng dẫn cho người dân những biện pháp vệ sinh phòng dịch đơn giản như rửa tay trước khi ăn, uống nước đã đun sôi… Lâu dài hơn là một chiến dịch vận động người dân xây nhà vệ sinh đúng tiêu chuẩn, làm sạch nguồn nước. Hoạt động của Bộ như thế nào trong nhiều năm qua để đến nay Bộ mới phát hiện rất nhiều cộng đồng dân cư không xây nhà vệ sinh và các quan chức của Bộ chỉ biết bày tỏ sự ngạc nhiên một cách rất vô tâm.

Một chuyện đơn giản là gọi tên cho đúng “tiêu chảy cấp” hay “bệnh tả”, Bộ cũng không giải quyết rốt ráo để Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương đề nghị nên gọi “bệnh tả” thay vì “tiêu chảy cấp nguy hiểm”, còn Thứ trưởng Bộ Y tế thì cứ khăng khăng giải thích theo cách của mình. Riêng Cục trưởng Cục Y tế dự phòng và môi trường lại nói chưa công bố dịch vì chưa có quy định! Ở đây phải thấy một điều, chúng ta đang cố gắng bảo vệ sức khỏe của người dân hay cố gắng làm nhẹ tình hình vì du lịch, vì uy tín? Không lẽ tính mạng người dân không quan trọng bằng sự thu hút khách du lịch hay sao? Và trong giai đoạn vừa qua, hoàn toàn không thấy phát biểu, giải thích, hướng dẫn gì cả từ người đứng đầu Bộ.

Một ví dụ khác về chuyện quản lý nhà nước. Năm ngoái Bộ Kế hoạch Đầu tư báo cáo tổng vốn FDI đăng ký là 20,3 tỷ đô-la, giải ngân được 4,6 tỷ đô-la. Nay Bộ này cho biết con số chính xác là 21,3 tỷ đô-la (vốn đăng ký) và trên 8 tỷ đô-la (vốn thực hiện). Chênh lệch của con số vốn đăng ký không đáng kể, có thể tính vào sai sót thống kê nhưng con số vốn giải ngân từ 4,6 tỷ đô-la lên trên 8 tỷ đô-la là một sai số lớn, không thể chấp nhận được. Nếu nhìn vào cán cân thanh toán của Việt Nam trong năm 2007 (xem thêm mục Sự kiện & Vấn đề, TBKTSG số 17-2008), số vốn FDI thực hiện cao, có nghĩa thâm hụt thương mại hoặc dự trữ ngoại tệ phải cao hơn thực tế nhiều. Con số giải ngân vốn FDI năm 2006 là 4,1 tỷ đô-la – nếu năm ngoái con số này lên trên 8 tỷ đô-la, kéo theo biết bao nhiêu mức tăng gấp đôi như thế, cả về số lao động tuyển dụng, lượng điện tiêu thụ, nguyên vật liệu, nhập khẩu máy móc, nhu cầu văn phòng, đất đai… Bộ lại không có một lời giải thích ngoài một dòng điều chỉnh trong báo cáo. Ở đây cũng có hai vấn đề: một là độ chính xác của các con số; còn nếu chúng là chính xác thì sự yếu kém trong công tác quản lý vốn đầu tư nước ngoài của Bộ từ khi phân cấp cho địa phương. Năm rồi đã xảy ra việc điều chỉnh số liệu như thế ở nhiều ngành, từ ngân hàng cho đến tài chính và ngay là đầu tư. Thiếu số liệu chính xác, làm sao trông chờ chính sách đúng đắn vì chúng sẽ chênh với thực tế ngay.

Một hiện tượng khác cũng không thấy Bộ Kế hoạch & Đầu tư lên tiếng là chuyện hàng loạt dự án tiền tỷ đô-la nghe rất hoành tráng nhưng thực chất là loại dự án xây sòng bạc casino ở nhiều địa phương – từ Đà Nẵng đến Vũng Tàu hay Phú Quốc. Bộ đã có nghiên cứu gì chưa về lợi hại của việc mở casino ở Việt Nam, vì sao các dự án này lại lên đến nhiều tỷ, có chăng tình trạng dành đất làm địa ốc bên cạnh chuyện xây sòng bạc? Không khéo dòng vốn FDI lại rơi vào tình trạng đăng ký để xí chỗ như những năm giữa thập niên 1990.

Trong văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ ngày 7-4 có hàng loạt công việc yêu cầu các bộ, ngành thực hiện và báo cáo trước ngày 15-4, như giải pháp kiểm soát luồng vốn ngắn hạn, điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng, xây dựng tiêu chí phân loại dự án đầu tư công để loại các dự án không hiệu quả, tiêu chí thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, phương án giảm nhập siêu… Ngày 15-4 đã trôi qua, không biết bao nhiêu trong số đầu việc trên đã được thực hiện. Có lẽ Văn phòng Chính phủ, nơi truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nên công bố cho mọi người cùng biết để góp thêm sức ép dư luận lên hoạt động của các bộ ngành trong bộ máy nhà nước. Và cuối cùng để nơi nào vẫn còn buông trách nhiệm quản lý như trong thời gian vừa qua, người dân, thông qua đại biểu Quốc hội của mình có thể yêu cầu bãi miễn ngay trong khóa họp sắp tới.

Bài đăng phổ biến