Thứ Tư, 24 tháng 9, 2008

Khung hoang tai chinh

Lòng tham là thủ phạm

Nguyễn Vạn Phú

Câu hỏi đầu tiên của nhiều người khi những chứng kiến biến động sâu sắc trên thị trường tài chính nước Mỹ trong suốt tuần qua là vì sao mọi việc diễn ra nhanh chóng đến thế.

Chực chờ ngoài ngõ

Khủng hoảng tài chính ở Mỹ, xuất phát từ chuyện cho vay dưới chuẩn trên thị trường địa ốc diễn ra ngấm ngầm từ năm ngoái. Thế nhưng thủ phạm chính cho hàng loạt cuộc sụp đổ các đại công ty tài chính và ngân hàng đầu tư trong hai tuần qua là giới đầu cơ với công cụ mua bán khống. Một khi giới này tin chắc cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn. Thời gian qua, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale), tức là thậm chí không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu. Bộ trưởng Tư pháp bang New York, Andrew Cuomo than: “Họ giống như kẻ hôi của sau một cơn bão”. Ngay cả ứng cử viên tổng thống John McCain cũng cho rằng Ủy ban Chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) đã duy trì các quy định cho phép những kẻ đầu cơ biến thị trường chứng khoán thành canh bạc lớn và tuyên bố: “Nếu tôi là tổng thống, tôi đã sa thải ngay [Christopher Cox, chủ tịch SEC]”.

Trước nay quan niệm của giới quản lý thị trường chứng khoán cho rằng bán khống là một phần tất yếu của hoạt động giao dịch, nhờ nó mà giá chứng khoán không bị đẩy lên cao một cách giả tạo. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhiều tập đoàn rõ ràng phải chờ đến bàn tay cứu vớt của chính phủ Mỹ, xu hướng giảm giá cổ phiếu của họ là quá rõ, giới đầu cơ không thể nào bỏ qua cơ hội “đánh hôi” kiếm lời. Ví dụ, cổ phiếu của Morgan Stanley trong ngày thứ Tư (17-9) giảm đến 24% và tổng giám đốc John Mack cáo buộc giới bán khống chịu trách nhiệm phần lớn cho sự sụt giá nhanh chóng này bởi mới ngày hôm trước Morgan Stanley công bố tình hình tài chính với kết quả kinh doanh tốt hơn dự báo.

Đến gần cuối tuần trước, SEC phải theo chân Anh và một số nước khác, tạm thời cấm bán khống đối với 799 loại chứng khoán. Các quỹ hưu trí, nơi thường giữ cổ phiếu lâu dài và là nơi cho vay để giới đầu cơ bán khống tuyên bố sẽ hạn chế cho vay theo kiểu cũ. Lệnh cấm này mở đường cho những cải cách sâu rộng mà giới quản lý thị trường tài chính các nước sẽ phải tiến hành trong thời gian tới nếu không muốn tình trạng khủng hoảng tái diễn.

Thủ phạm trong nhà

Thế nhưng để cho giới đầu cơ có cơ hội ngàn vàng như thế, lỗi chính là ở các tập đoàn tài chính quá tham lam và vô trách nhiệm. Đây là kết luận của hầu hết các nhà phân tích khi nhìn lại nguyên nhân của cuộc khủng hoảng hiện nay. TBKTSG đã có khá nhiều bài viết về chuyện “chứng khoán hóa” các khoản vay dưới chuẩn để mua đi bán lại kiếm lời. Cho đến tuần trước các con số cụ thể lần lượt được tiết lộ. Ví dụ, từ năm 2004 đến 2007, bảng cân đối kế toán của Lehman Brothers tăng thêm 300 tỷ đô-la nhờ mua chứng khoán có nguồn gốc là các khoản vay địa ốc trong khi nguồn vốn chủ sở hữu chỉ tăng 6 tỷ đô-la. Cái gọi là đòn bẩy tài chính được tận dụng khi chứng khoán mua vào được sử dụng làm vật thế chấp để vay mua chứng khoán khác, cứ thế một đồng đô-la tài sản thật sẽ được biến hóa thành hàng trăm đồng đô-la tài sản ảo chỉ hiện diện trên sổ sách. Chừng nào lãi suất còn ở mức thấp thì Lehman Brothers vẫn còn báo lãi nhưng một khi lãi tiền vay cao hơn chênh lệch mua bán thì họ bắt đầu chuỗi ngày dài lỗ nặng. Trong trường hợp của Lehman, giá trị tài sản gấp 31 lần vốn chủ sở hữu cho nên nếu giá trị tài sản chỉ cần giảm 3% thì toàn bộ vốn chủ sở hữu sẽ mất tiêu!

Các tập đoàn tài chính này có biết rủi ro rất dễ thấy này không? Đương nhiên là biết nhưng chính vì những khoản tiền thưởng hậu hĩ cho những ai mua bán, giao dịch nhiều càng làm các giới quản lý bất chấp trách nhiệm, liều lĩnh lao vào vòng xoáy mua bán chứng khoán. Dù sao, họ vững tin, nếu có chuyện gì, chính phủ sẽ phải cứu để toàn bộ thị trường khỏi sụp đổ và quan trọng hơn hết, nếu phá sản, chỉ có giới đầu tư chịu còn họ đã yên tâm với khoản lương thưởng hàng trăm triệu đô-la hàng năm. Nhà kinh tế đoạt giải Nobel Joseph Stiglitz cho rằng nếu lột bỏ hết mọi từ ngữ rất kêu về các công cụ tài chính mới, cuộc khủng hoảng hiện nay cũng chỉ là một dạng lạm dụng quá đáng “đòn bẩy tài chính” và âm mưu lừa đảo theo kiểu dùng tiền của người sau trả cho người trước. Ông cũng nhận định FED đã thất bại ở cả hai mặt: áp dụng lãi suất thấp trong thời gian dài để mọi người thỏa sức vay mượn và quản lý lỏng lẻo dẫn tới bong bóng địa ốc, là nguồn cơn của khủng hoảng hiện nay.

Đi tìm mô hình tài chính mới?

Cuộc khủng hoảng tài chính vẫn đang diễn ra nên chưa ai bàn gì sâu về một mô hình tài chính tương lai nhưng tất cả mọi nhận định đều cho rằng sẽ có những thay đổi tận gốc rễ. Đầu tiên, giới đầu tư châu Á sẽ phải cân nhắc lại chiến lược đổ tiền vào thị trường Mỹ mua chứng khoán tính bằng tiền đô-la. Đã nhiều năm nay, tiền để dành của dân châu Á đổ vào Mỹ ở nhiều dạng, từ trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp để cổ phiếu đủ loại. Khoản tiền này là dầu bôi trơn vận hành bộ máy tài chính tinh vi và phức tạp của Mỹ. Nay với sự tàn phá nặng nề của cơn bão tài chính hai tuần qua, chắc chắn trong tương lai gần, giới đầu tư châu Á và các châu khác sẽ phải tính toán lại chiến lược. Đây là điểm gây lo lắng cho nhiều nhà phân tích vì, một khi xu hướng này diễn ra, khủng hoảng tài chính ở Mỹ sẽ kéo dài, khó tìm lối thoát dài hạn. Thật ra xu hướng này đã bắt đầu – số liệu của Bộ Tài chính Mỹ công bố đầu tuần trước cho thấy, tính chênh lệch ròng thì nhà đầu tư rút 92,9 tỷ đô-la khỏi thị trường Mỹ vào tháng 7-2008 dù tháng trước đó, chênh lệch vẫn nghiêng theo hướng đổ vào, vẫn còn dương lên đến 46,8 tỷ đô-la. Ngân hàng trung ương các nước châu Á vẫn còn mua trái phiếu chính phủ Mỹ nhưng với mức ngày càng thấp dần – chỉ còn 18,2 tỷ đô-la vào tháng 7 trong khi mức bình quân sáu tháng đầu năm nay là 22,3 tỷ mỗi tháng.

Cái quan trọng là tính minh bạch, được các tập đoàn tài chính toàn cầu nhấn mạnh như một trong những điểm then chốt để thu hút đầu tư, lại không được chính họ coi trọng trong thời gian qua. Không ai biết đích xác tài sản nằm trong bản cân đối kế toán của một tập đoàn có nguồn gốc từ đâu vì chúng đã được sang tay, mua bán qua lại rất nhiều lần. Vì thế, sau cơn bão, dọn dẹp đống đổ nát đòi hỏi những tập đoàn còn trụ lại phải minh bạch hóa mọi khoản đầu tư mới mong chiếm lại phần nào lòng tin của giới đầu tư. Lấy ví dụ, trong thời kỳ bùng nổ thế chấp bất động sản, Merrill Lynch nhận hàng tỷ đô-la nghĩa vụ nợ với hồ sơ rất mơ hồ. Để giảm thiểu rủi ro, Merrill Lynch mua bảo hiểm ở AIG dưới dạng “trao đổi vỡ nợ tín dụng”, chỉ tính riêng ở hãng bảo hiểm này đã lên tới 5 tỷ đô-la. Tổng cộng AIG bảo hiểm đến 441 tỷ đô-la loại này, trong đó 58 tỷ liên quan đến tín dụng dưới chuẩn địa ốc. Chưa biết AIG bán lại loại bảo hiểm này cho ai nhưng chắc chắn nhiều ngân hàng châu Âu có dính vào.

Điều chắc chắn nữa là chính phủ nhiệm kỳ tới của Mỹ sẽ đảo ngược quá trình “nới lỏng quản lý” (deregulation) đối với hoạt động trên thị trường tài chính – chứng khoán và sẽ áp dụng nhiều quy định mới. Cấm bán khống là một minh họa diễn ra sớm nhất và những biện pháp can thiệp của chính phủ Mỹ chính là quá trình siết chặt quản lý chứ không để thị trường “tự quyết định” như trước. Ứng cử viên tổng thống Barack Obama, người từng chủ trương đẩy mạnh quản lý, càng có dịp thúc đẩy nhanh quá trình này còn John McCain, trước còn cổ súy cho việc nới lỏng quản lý để thúc đẩy tăng trưởng, nay phải quay ngoắc 180 độ để hứa hẹn: “Dưới những cải cách của tôi, người dân Mỹ sẽ được bảo vệ bởi các quy định quản lý toàn diện”.

Trước đây, cựu chủ tịch FED, Alan Greenspan chủ trương các định chế tài chính sẽ quản lý lẫn nhau, có nghĩa các tập đoàn tài chính, vì lợi ích của chính họ, sẽ canh chừng đối thủ để thổi còi nếu làm sai. Thế nhưng một khi tất cả đều làm sai thì ai đứng ra canh chừng họ?

Những cộc mốc chính
2004-2006: Lãi suất ở Mỹ tăng từ 1% lên 5,35%, thị trường địa ốc Mỹ bắt đầu xuống giá. Các khoản vay địa ốc dưới chuẩn không trả được tăng vọt đến mức báo động.
2007: Các ngân hàng lớn lần lượt báo cáo lỗ do dính vào các khoản vay loại này.
17-3-2008: Bear Stearns ngân hàng lớn thứ năm ở Wall Street, mới năm ngoái có giá khoảng 18 tỷ đô-la phải bán mình cho JP Morgan Chase với giá 2 đô-la/cổ phiếu so với giá 172 đô-la/cổ phiếu đầu năm 2007. Fed (New York) đứng đằng sau cho vay 29 tỷ đô-la để bảo lãnh các khoản nợ khó đòi.
11-7-2008: Ngân hàng IndyMac bị đặt dưới quyền kiểm soát của Fed và sau đó tuyên bố phá sản.
6-9-2008: Fed nắm quyền kiểm soát Fannie Mae và Freddie Mac, hai tập đoàn bảo lãnh tín dụng địa ốc lớn nhất Mỹ.
14-9-2008: Ngân hàng đầu tư Lehman Brothers tuyên bố phá sản.
15-9-2008: Merrill Lynch, lo sợ số phận tương tự Lehman Brothers, phải bán mình cho Bank of America với giá 50 tỷ đô-la.
16-9-2008: Fed đồng ý cho AIG vay 85 tỷ đô-la đổi lại quyền nắm giữ 80% cổ phiếu của hãng bảo hiểm này.
18-9-2008: Fed và ngân hàng trung ương các nước khác bơm 180 tỷ đô-la để tháo băng tín dụng ngân hàng.
19-9-2008: Chính phủ Mỹ tuyên bố một kế hoạch tổng thể để cứu hệ thống tài chính, gồm một chương trình mua lại các khoản vay thế chấp xấu với chi phí ước tính lên đến 700 tỷ đô-la.

Cập nhật
Canh bạc sau cùng

Kế hoạch giải cứu thị trường tài chính của chính phủ Mỹ là một canh bạc khổng lồ với những khoản đặt cược to lớn – là sự sống còn của không chỉ nhiều tập đoàn tài chính mà còn của cả nền kinh tế Mỹ và, cách nào đó, là nền kinh tế toàn cầu.

Chấm dứt những ngày chọn lựa, cân nhắc cứu tập đoàn này bằng những khoản tiền khổng lồ, bỏ mặt tập đoàn khác cho phá sản, cuối tuần trước chính phủ Mỹ đã vạch ra một kế hoạch toàn diện hơn nhằm ngăn chận cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng. Bản kế hoạch chỉ vỏn vẹn ba trang giấy nhưng có trị giá đến 700 tỷ USD yêu cầu trao cho Bộ Tài chính Mỹ, phối hợp với Cục Dự trữ Liên bang toàn quyền xử lý mua lại những món tài sản xấu của các ngân hàng và tập đoàn tài chính nhằm làm lành mạnh hóa sổ sách của chúng và từ đó hy vọng đem lại niềm tin vào thị trường tài chính.

Ngay lập tức, hàng loạt câu hỏi được đặt ra – những câu hỏi rất hữu ích cho các cuộc “giải cứu chứng khoán” tương tự. Đối tượng được giải cứu đã được xác định đúng chưa vì bản chất của cuộc khủng hoảng hiện nay là những món vay dưới chuẩn mua nhà trả góp, nếu không giúp người mua nhà trả được nợ thì chưa giải quyết được gốc rễ của vấn đề. Nhiều nhà phân tích cho rằng giải cứu như thế chỉ có lợi cho những nhà tài phiệt – thủ phạm chính gây ra khủng hoảng – nên sẽ làm cho họ lờn mặt, sẽ cứ tiếp tục kinh doanh liều lĩnh như trước vì yên trí sẽ có chính phủ ra tay cứu giúp.

Câu hỏi quan trọng tiếp theo là mua với giá nào? Bộ Tài chính Mỹ cho biết sẽ mua với “giá thị trường” nhưng với những biến động giá chứng khoán trong hai tuần qua, không ai biết giá thị trường là giá nào nữa. Chỉ cần nghe đến kế hoạch giải cứu, giá chứng khoán của các ngân hàng và tập đoàn tài chính, sau khi tụt giảm thê thảm, đã tăng vọt trở lại, có lẽ vì yếu tố chờ “giá thị trường” này. Nếu mua với giá quá cao thì sẽ là gánh nặng cho người dân đóng thuế của Mỹ nhưng mua giá quá thấp thì kế hoạch sẽ không có tác dụng ngăn chận khủng hoảng lan rộng.

Với các nhà kinh tế, câu hỏi họ thắc mắc là mua tài sản loại gì. Kế hoạch dùng từ chung chung là “tài sản liên quan đến vay thế chấp” nhưng từ một khoản vay thế chấp mua nhà bình thường, người ta đã biến báo ra đủ loại sản phẩm “phái sinh” sau khi “chứng khoán hóa” chúng. Chẳng hạn, AIG gần sụp đổ là vì họ bán bảo hiểm cho các ngân hàng đầu tư phòng ngừa trường hợp vỡ nợ. Nay các loại hợp đồng bảo hiểm này, bản thân chúng cũng được mua qua bán lại như một tài sản, có được đưa vào diện “giải cứu” chăng? Các tài sản của các quỹ đầu cơ chắc chắn không được chính phủ Mỹ mua rồi nhưng giả thử họ bán các loại tài sản này cho các ngân hàng đầu tư thì sao?

Mặc dù bản kế hoạch không nói nhưng trong những giải thích sau đó, Bộ trưởng Tài chính Henry Paulson cho biết sẽ mua tài sản của cả các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động ở Mỹ có liên quan đến nợ xấu địa ốc. Thế thì các ngân hàng hay tập đoàn tài chính ở nước ngoài thì sao? Trước đó đã có hàng loạt ngân hàng sụp đổ vì dính líu đến các khoản vay này.

Chính vì những câu hỏi này mà ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ Obama đã phê phán kế hoạch của chính phủ Mỹ chỉ là “một khái niệm với bảng giá quá cao, chứ không phải là một kế hoạch”. Theo ông, kế hoạch cuối cùng phải bao gồm những ràng buộc bắt các tập đoàn được nó hỗ trợ chia sẻ một phần chi phí, giúp người mua nhà trả góp khỏi bị tịch biên tài sản và phải phối hợp với chính phủ các nước khác. Thông thường một khi chính phủ can thiệp, con đường phải đi là chiếm quyền kiểm soát tập đoàn nào gần phá sản, tuyên bố bảo đảm trả hết nợ, cơ cấu lại tài sản rồi bán nó cho thị trường. Nợ xấu thường được chuyển cho một công ty xử lý nợ quốc gia khoanh lại. Vì thế, người ta nhận xét, kế hoạch của chính phủ Mỹ có mục đích tạo dựng lại niềm tin thị trường hơn là giải quyết gốc rễ vấn đề.

Nhìn xa hơn, kế hoạch giải cứu sẽ tạo ra những tác động khó lường hết được. Ví dụ, chắc chắn thâm hụt ngân sách của Mỹ sẽ gia tăng mạnh do chi phí thực hiện kế hoạch, vậy, lạm phát sẽ như thế nào, thị trường trái phiếu chính phủ Mỹ sẽ ra sao, tương lai đồng đô-la mạnh yếu như thế nào – chưa ai rõ.

Tuy nhiên, hầu như mọi nhà phân tích, dù đặt ra hàng loạt nghi vấn như thế, vẫn cho rằng chính phủ Mỹ không còn lựa chọn nào khác. Nếu không mạnh tay “giải cứu” thị trường, hàng loạt vụ sụp đổ khác sẽ khiến nền kinh tế lao vào vòng xoáy phá sản. Tuần trước, các ngân hàng không còn thiết tha gì việc cho vay, họ bám chặt vào các loại tài sản tương đương tiền mặt để phòng thân, làm nền kinh tế đi vào chỗ tắt nghẽn. Con số 700 tỷ USD không phải là mất hẳn – sau khi mua lại, kinh tế ổn định, chính phủ Mỹ sẽ lại bán ra, biết đâu thậm chí còn lãi một khoản đáng kể nữa. Có lẽ phát biểu của Tổng thống Bush tóm gọn được tình hình: “Nguy cơ không làm gì cả cao hơn nhiều rủi ro của kế hoạch này”.

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2008

Khong the chu quan

Kinh tế 6 tháng đầu năm

Không thể chủ quan

Nguyễn Vạn Phú

Nền kinh tế Việt Nam bước vào năm 2008 với những triệu chứng lâm trọng bệnh. Nhờ những biện pháp tích cực, các triệu chứng này đã được đẩy lùi trong ngắn hạn nhưng về dài hạn các nguyên nhân gây bệnh phải được giải quyết rốt ráo mới mong trị hẳn căn bệnh hiện nay.

Điều chỉnh chính sách

Từ thời điểm tháng 7-2008 này nhìn lại 6 tháng qua, có thể thấy một trong những đặc điểm của việc điều hành kinh tế vĩ mô là sự điều chỉnh chính sách – một sự điều chỉnh cần thiết và diễn ra khá nhanh ở lãnh đạo Chính phủ nhưng lại dùng dằng, không nhất quán ở cấp bộ, ngành và địa phương.

Cho đến gần hết quý 1-2008, quan điểm chỉ đạo điều hành kinh tế vẫn là nỗ lực chống lạm phát nhưng không hy sinh mục tiêu tăng trưởng; song song với các giải pháp thắt chặt tiền tệ, chi tiêu công lại khẳng định ngân hàng vẫn sẽ tiếp tục cho vay chứng khoán, bất động sản. Lúc đó, vẫn còn ý định “cứu chứng khoán” bằng các biện pháp hành chính như chỉ đạo Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước mua cổ phiếu… Bước sang quý 2-2008, tình hình lạm phát, nhập siêu cao đã buộc Chính phủ điều chỉnh chính sách, đặt lại ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm phát với những biện pháp đúng theo bài bản chống lạm phát kinh điển như thắt chặt đầu tư công để giảm cung tiền, áp dụng cơ chế lãi suất thực dương, giảm nhập siêu, giảm mức tăng GDP…

Đáng tiếc là trong suốt những tháng đầu năm nay, nhiều bộ, ngành vẫn còn sự lúng túng đã để trôi qua nhiều cơ hội, nhất là cơ hội về mặt thời gian. Có lẽ chúng ta vẫn còn nhớ mức trần lãi suất 12% mà Hiệp hội ngân hàng ấn định với sự đồng tình của Ngân hàng Nhà nước kéo dài trong nhiều tháng. Lẽ ra nếu Ngân hàng Nhà nước chủ động hơn và thực thi sớm hơn việc dùng lãi suất cơ bản làm công cụ để tác động lên thị trường tiền tệ, việc ổn định hệ thống ngân hàng có lẽ đã diễn ra nhanh hơn. Nay nhìn lại mới thấy đề xuất của Ngân hàng Nhà nước với Quốc hội đòi nâng tỷ lệ tính mức cho vay nặng lãi trong Bộ Luật Dân sự thay vì tự mình điều chỉnh lãi suất cơ bản là một đề xuất lúng túng đến mức nào. Ngân hàng Nhà nước cũng đã bỏ qua cơ hội điều chỉnh tỷ giá linh hoạt khi đô-la Mỹ mất giá trên thị trường Việt Nam và lại lúng túng một thời gian dài (mãi cho đến tuần trước) khi xuất hiện chênh lệch tỷ giá quá lớn giữa thị trường chính thức và thị trường tự do.

Sự biến chuyển ở lãnh đạo Chính phủ trong việc xác định ưu tiên chính sách vẫn chưa thể hiện ở cấp thấp hơn, việc xác định các dự án đầu tư công cần cắt giảm, hoãn vẫn chưa xong, các địa phương vẫn còn tìm cách nâng mức đầu tư này lên nữa để đạt con số tăng trưởng GDP mang tính thành tích. Các tập đoàn và tổng công ty nhà nước vẫn chưa có động thái gì giải quyết việc đầu tư dàn trải, ra khỏi ngành nghề chính (trừ Vinashin với một tỷ lệ cắt giảm ít ỏi).

Nhìn một cách tổng quát, ba triệu chứng nổi bật của kinh tế Việt Nam trong nửa đầu năm nay là lạm phát cao, nhập siêu tăng, tỷ giá không ổn định đã phần nào được giải quyết nhờ một loạt các giải pháp cụ thể thực hiện 8 biện pháp mà Chính phủ đã đưa ra trước đó (xem các biểu đồ số liệu kinh tế 6 tháng đầu năm). Tuy nhiên, điều cần lưu ý là đã xuất hiện một tâm lý cho rằng khó khăn của nền kinh tế Việt Nam chỉ mang tính ngắn hạn, giải quyết được triệu chứng, nền kinh tế sẽ tiếp tục đi lên như năm ngoái. Các thông tin mang tính lạc quan cũng dễ làm mọi người chủ quan, không muốn tiếp tục các biện pháp “thắt lưng buộc bụng” do chúng đang gây khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thu ngân sách… Những biểu hiện này sẽ làm cuộc chiến chống lạm phát gay go hơn trong những tháng cuối năm.

Vượt qua khó khăn trong trung hạn

GS. David Dapice, một trong những tác giả chính của báo cáo nghiên cứu “Lựa chọn thành công: Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam” trở lại thăm Việt Nam vào giữa tháng 6-2008. Trong một dịp tiếp xúc với TBKTSG, ông nhận xét: Vấn đề chính của Việt Nam là đã quá thành công! Ý ông cho rằng khó khăn kinh tế hiện nay xuất phát từ việc năm ngoái Việt Nam thu hút quá nhiều vốn từ bên ngoài trong khi tỷ giá vẫn được duy trì ở mức ổn định trong thời gian dài. Tiền đổ vào nhiều đã tạo ra những mức tăng kỷ lục, cả về tốc độ tăng trưởng tín dụng, nhập khẩu, lạm phát, giá cả trên thị trường chứng khoán và địa ốc.

Nay với những giải pháp đã đề ra, không chỉ riêng GS Dapice mà nhiều ý kiến khác của các chuyên gia trong và ngoài nước đều cho rằng Việt Nam đang đi đúng hướng để giải quyết khó khăn trong ngắn hạn. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là những liều thuốc này sẽ có những tác dụng phụ, bắt đầu thể hiện và sẽ thể hiện mạnh trong trung hạn. Đó là nền kinh tế sẽ thiếu vốn, vốn ngày càng đắt vì chính sách thắt chặt tiền tệ. Trong thời gian tới nhiều doanh nghiệp sẽ gặp khó, nhiều doanh nghiệp khác sẽ phải giảm quy mô sản xuất nên chẳng lạ gì cựu Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Alan Greenspan nhận định khi gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rằng Việt Nam cần phải chấp nhận mức giảm tăng trưởng nhiều hơn nữa.

Một khó khăn khác trong trung hạn là tình hình kinh tế thế giới vẫn biến động theo chiều hướng xấu. Giá dầu thô vẫn tăng, vượt hết mốc kỷ lục này đến mốc kỷ lục khác. Tình hình này sẽ tạo ra áp lực lạm phát ngoại nhập mạnh hơn 6 tháng đầu năm, làm xuất khẩu khó tăng như mong muốn và không hỗ trợ nổi thị trường chứng khoán trong nước, ít nhất là về mặt tâm lý.

Việc cắt giảm đầu tư công hay việc các tổng công ty, tập đoàn nhà nước sẽ phải đình hoãn các dự án đầu tư theo lệnh của Chính phủ, dù là biện pháp đúng, phải tiến hành mạnh mẽ, nhưng cũng sẽ gây khó khăn cho công ăn việc làm địa phương, cho các doanh nghiệp đối tác liên quan.

Cái khó nhất là các giải pháp hiện nay đều mang tính đánh đổi và tạo tâm lý khác nhau ở các nhóm dân cư khác nhau. Lấy ví dụ chuyện tỷ giá: ổn định tỷ giá là điều cần thiết nhưng vấn đề là ở mức nào. Nếu quá thấp, người ta sẽ tiếp tục nhập hàng về bán, kể cả hàng xa xỉ, làm nhập siêu tiếp tục gia tăng và giảm lượng dự trữ ngoại tệ; nếu quá cao, dù có tác dụng kích thích xuất khẩu nhưng sẽ tạo áp lực lên lạm phát, gây tâm lý đồng tiền mất giá. Hay chuyện lãi suất: lãi suất ắt phải còn tăng thêm để chống lạm phát, hút tiền vào ngân hàng nhưng đồng thời gây khó khăn cho doanh nghiệp khi vay vốn. Tình hình đó đòi hỏi Chính phủ phải linh hoạt trong chính sách nhưng đồng thời phải thông tin kịp thời, công khai cho người dân và doanh nghiệp biết định hướng để ổn định tâm lý và điều chỉnh chiến lược kinh doanh. Đồng thời nó đòi hỏi sự nhất quán trong chính sách vì chắc chắn sẽ có những tiếng nói yêu cầu bơm thêm tiền vào lưu thông để giúp nền kinh tế vận hành với tốc độ như cũ, giảm dự trữ bắt buộc để giảm khó khăn cho ngân hàng… Hiện vẫn còn tâm lý “nghiện” đồng tiền dễ, một hiện tượng phổ biến trong năm 2007.

Chiến lược dài hạn

Có lẽ không phải là quá sớm khi nêu yêu cầu cần có một chiến lược dài hạn cấu trúc lại cơ cấu nền kinh tế để Việt Nam tránh được những khó khăn phải đương đầu trong năm nay. Lấy ví dụ chuyện nhập siêu, nếu vẫn chủ trương sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thì khó lòng giảm nhập siêu bởi những nghiên cứu gần đây cho thấy các lĩnh vực công nghiệp có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu đã duy trì được mức tăng trưởng cao sau khi Việt Nam vào WTO trong khi các lĩnh vực thay thế nhập khẩu lại có mức tăng trưởng thấp (xem thêm bài “…..” của Phạm Chi Lan, trang….).

Một điểm mà hầu hết các chuyên gia kinh tế đều đồng tình là phải xem xét lại hiệu quả của các dự án đầu tư công mà chúng ta từng có nhiều bài học thất bại. GS Dapice nêu dự án xây dựng tuyến đường sắt cao tốc mà Việt Nam đang nghiên cứu thực hiện như một dẫn chứng về sự lãng phí, thiếu hiệu quả. Chưa kể hiệu quả của một tuyến đường sắt như thế, chỉ riêng chi phí lên đến 30-35 triệu đô-la cho mỗi cây số đường sắt cao tốc cũng đã quá lãng phí so với mức chi phí 3 triệu đô-la mỗi cây số mà các nước đang xây dựng. Ông cho rằng nếu không thực hiện các biện pháp cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu công thì nền kinh tế sẽ đi đến chỗ tín dụng bị thu hẹp, khu vực kinh tế tư nhân sẽ gặp nhiều khó khăn vì không tiếp cận được vốn vay ngân hàng.

Thời gian sắp tới Việt Nam cần tiếp tục cải cách khối doanh nghiệp nhà nước, không để chúng trở thành những “con voi trắng” nặng nề tạo sức ỳ cho cả nền kinh tế. Cũng may là khó khăn kinh tế hiện nay đã kịp thời ngăn lại một xu hướng nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, hoặc trực tiếp hoặc thông qua con đường phát hành trái phiếu quốc tế. Những món nợ như thế chính là ngòi nổ cho một cuộc khủng hoảng trong tương lai.

Cuối cùng, một bài học chúng ta có thể rút ra sau 6 tháng đầu năm 2008 là vấn đề minh bạch trong thông tin. Đây vừa là bài học trước mắt mà tác dụng đã được minh chứng trong tháng 6-2008 vừa phải là một cơ chế được xây dựng dài hạn và bài bản vì một khi thông tin được cung cấp đầy đủ, thị trường sẽ không còn phải dựa vào những thông tin mang tính đồn đoán, phân tích dựa vào dữ liệu thiếu thốn hay do những người không nắm rõ tình hình trong nước đưa ra.

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2008

Di tim buc tranh tong the

Đi tìm bức tranh tổng thể

Nguyễn Vạn Phú

Với người dân bình thường, câu hỏi đặt ra là họ không “chơi” chứng khoán, không đầu cơ địa ốc, không nhập ô-tô đắt tiền, tại sao họ phải gánh chịu khó khăn hiện nay của nền kinh tế do lòng tham của người khác gây ra? Khi các phân tích kinh tế của các tổ chức tài chính nước ngoài cũng đều nhận định tình hình trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, là thân chủ của họ, liệu có ai phân tích triển vọng kinh tế vì lợi ích chung của đất nước, của những người dân bình thường, trong tay không có đồng đô-la hay tờ cổ phiếu nào?

Có lẽ khi đặt vấn đề như thế, chúng ta sẽ dễ tiếp nhận các thông tin trái chiều hiện đang tạo ra những hiệu ứng tâm lý khác nhau. Trong khi nội dung chính của các báo cáo từ nước ngoài tập trung vào chuyện tài chính, điều chúng ta cần hiện nay là một bức tranh tổng thể của nền kinh tế, dựa vào các yếu tố căn bản hơn. Điều đáng nói là phân tích của các chuyên gia nước ngoài, cả ở các định chế quốc tế và các hãng tư vấn đầu tư đã có sự đảo chiều, chừng mực hơn, sâu hơn vì dựa vào nhiều thông tin hơn trong tuần trước so với thời gian trước đó.

Về nhập siêu, sau khi đạt mức kỷ lục 14,4 tỷ đô-la sau năm tháng đầu năm 2008, tình trạng nhập siêu đang ở xu hướng giảm do nhiều yếu tố khác nhau. Với ảo tưởng giàu có nhờ cổ phiếu lên giá mạnh trong năm ngoái, nhiều người đã chi tiêu mạnh tay thể hiện qua các con số nhập khẩu xe hơi, hàng tiêu dùng đắt tiền… Nay ảo tưởng đã biến mất, tiền bạc khan hiếm, chắc chắn người ta sẽ không còn ồn ạt nhập hàng như những tháng đầu năm. Thị trường địa ốc trầm lắng cũng sẽ giảm cầu vật liệu xây dựng. Đã có những tin tức rải rác cho thấy điều đó như ô-tô nhập về không bán được, thép nhập về nay lại chuẩn bị xuất ngược trở lại. Ngay cả số lượng ô tô lắp ráp trong nước bán trong tháng Năm giảm gần 1.800 chiếc so với tháng trước, sẽ làm giảm linh kiện nhập khẩu. Với tỷ giá đang biến động theo hướng đô-la Mỹ lên giá so với tiền đồng, nhà nhập khẩu sẽ khó mua đô-la hơn và hàng nhập sẽ đắt hơn nên xu hướng chung là nhập khẩu sẽ giảm.

Vấn đề ở chỗ làm sao để khuyến khích mạnh hơn nữa xuất khẩu để giảm nhập siêu khi nhiều mặt hàng xuất khẩu cũng đang phụ thuộc đầu vào là nguyên liệu nhập khẩu. Sự linh hoạt trong tỷ giá chính là cách giúp nâng tính cạnh tranh của hàng Việt Nam ở nước ngoài – một sự linh hoạt định giá tiền đồng dựa vào cả rổ tiền các ngoại tệ là bạn hàng của Việt Nam chứ không chỉ đồng đô-la Mỹ. Chính sách thắt chặt tiền tệ và tài chính công nếu thực thi nghiêm chỉnh và kiên quyết cũng sẽ giúp giảm áp lực nhập siêu trong những tháng cuối năm. Thực tế, nhập siêu đang giảm: tháng 3 là 3,3 tỷ đô-la, tháng 4 còn 2,8 tỷ đô-la và tháng 5-2008 giảm tiếp còn 2,6 tỷ đô-la. Mức giảm này cần phải đẩy mạnh hơn nữa để tạo ra tác động tích cực lên các chỉ tiêu khác, nhất là lên cân đối cán cân thanh toán.

Về lạm phát, thật khó lòng cho Việt Nam khi đưa ra các biện pháp kiềm chế lạm phát trong bối cảnh giá xăng dầu và giá lương thực tăng cao ở khắp thế giới, cũng tạo ra nỗi lo lạm phát cho nhiều nước khác trong khu vực. Tuy nhiên, như nhiều người đã từng nói trước đây, lạm phát ở Việt Nam cao hơn nhiều do chính sách tiền tệ nới lỏng trong những năm trước. Nay khi tín dụng bị thắt chặt, cung tiền tăng không đáng kể thì lạm phát sẽ có xu hướng dịu xuống trong những tháng tới khi chính sách này bắt đầu có tác dụng. Số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy cung tiền đã giảm 10% so với cùng kỳ, phù hợp với mức tăng nhập khẩu đang chậm lại tương ứng. Theo báo cáo “Taking Stock” của WB tại hội nghị giữa kỳ các nhà tài trợ, nếu loại trừ yếu tố lương thực, tốc độ tăng giá đang giảm dần từ tháng Ba.

Điều cần lưu ý là kỳ vọng về lạm phát của người dân đóng vai trò quan trọng quyết định xu hướng giá cả. Vì thế, phải gắn chính sách lãi suất với việc kiềm chế lạm phát – lãi suất phải được nâng mức thực dương lên để người dân yên tâm gởi tiền vào ngân hàng, từ đó chính sách tiền tệ mới có tác dụng nhanh.
Về các chỉ số khác, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản vẫn tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, dường như Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội giá lương thực, thực phẩm trên thế giới đang tăng cao nên người nông dân chưa hưởng lợi bao nhiêu, lại đang chịu khó khăn do doanh nghiệp không có vốn mua hàng của họ để xuất khẩu. Giá trị sản xuất công nghiệp vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng của năm ngoái (16,4% cho năm tháng đầu năm) trừ ngành xây dựng.

Điểm đáng lưu ý là WB trong tài liệu nói trên nhấn mạnh cho dù Việt Nam cố tình giảm tốc độ tăng trưởng GDP năm nay còn 7%, với quán tính tăng trưởng mạnh đến 8,4% trong năm ngoái, GDP năm 2008 vẫn sẽ tăng cao hơn con số Việt Nam mong muốn. “Cho dù tốc độ phát triển ngành xây dựng giảm còn 0% trong những tháng còn lại trong năm và các ngành khác duy trì tốc độ tăng của quý 1, tăng trưởng GDP sẽ vào khoảng 7,5% trong năm 2008” – báo cáo viết. Nhấn mạnh điều này là để nói cho dù cuộc chiến kiềm chế lạm phát phải trả giá, về ngắn hạn, cái giá cũng không đến nỗi quá cao và Chính phủ cần phải cương quyết nói không với áp lực duy trì tăng trưởng từ các ngành và nhất là các địa phương.

Vì tâm lý đang đóng vai trò quan trọng trong ổn định thị trường, chúng ta cũng nên điểm lại một số yếu tố tài chính, tiền tệ để có cái nhìn khách quan đến mức có thể được.

Về cán cân thanh toán, theo thông tin từ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong buổi nói chuyện với ông David Fernandez, kinh tế trưởng JP Morgan Chase, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam là 20 tỷ đô-la tính đến năm 2007, cộng thêm gần 1 tỷ đô-la sau năm tháng đầu năm nay. Cũng theo Thủ tướng, cán cân thanh toán năm 2008 sẽ thặng dư từ 2 đến 3 tỷ đô-la. Nên nhớ chỉ tính riêng giải ngân các dự án FDI hiện nay cũng đã trên 1 tỷ đô-la mỗi tháng.
Báo cáo của WB cũng cho thấy những con số tương tự: thâm hụt tài khoản vãng lai trong năm 2008 ước tính khoảng 11,3 tỷ đô-la sẽ được bù đắp bởi thặng dư tài khoản vốn chừng 14,8 tỷ, để cán cân thanh toán sẽ thặng dư dưới dạng dự trữ ngoại tệ khoảng 3,4 tỷ đô-la. Đây chính là những con số mà thị trường đang cần để bác bỏ những đồn đoán về khủng khoảng cán cân thanh toán của Việt Nam (xem bảng). Tuy nhiên, ở góc độ này, thị trường đang cần sự điều hành linh hoạt về tỷ giá để góp phần vào việc giảm nhập siêu, tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam, nâng thu nhập cho công nhân khối FDI mà mức lương tối thiểu đang được tính theo tiền đô-la và tước bỏ những vũ khí đầu cơ của giới tài chính nước ngoài. Tỷ lệ lạm phát cũng phải được tính đến khi điều hành tỷ giá, không chỉ với đô-la Mỹ mà còn với các ngoại tệ khác nữa.

Cán cân thanh toán của Việt Nam (triệu đô-la Mỹ)
2007 2008 (dự báo)
A. Cân đối tài khoản vãng lai -6.992 -11.346
Cân đối thương mại (giá FOB) -10.360 -16.207
Chuyên chở, bảo hiểm, dịch vụ -894 -908
Chuyển lợi nhuận FDI về nước -2.168 -2.432
Kiều hối 6.430 8.200
B. Cân đối tài khoản vốn 17.541 14.847
FDI (giải ngân) 6.550 5.800
Vay trung và dài hạn 2.045 2.468
Vay ngắn hạn 79 94
Đầu tư tài chính 6.243 1.985
Tiền gởi 2624 4500
C. Sai số -381 0
D. Cân đối tổng thể (=A+B+C) 10.168 3.501
Trong đó. tăng dự trữ ngoại hối 10.144 3.475
Nguồn: NHNN năm 2007 và dự báo của WB cho năm 2008.

Về tác động tới người dân, các nhóm lợi ích liên quan đến tài chính có tiếng nói khá mạnh, dù công khai hay không công khai trong khi các nhóm lợi ích đại diện cho người dân nghèo, nhất là nông dân, hầu như không tồn tại. Vì thế, thực thi chính sách cần lưu ý để không bị tác động trước mắt hay áp lực của nhà đầu tư nước ngoài. Tuyên bố không phá giá tiền đồng đột ngột là theo hướng đó vì phá giá tiền đồng sẽ tác động mạnh lên lạm phát, làm chính sách thắt chặt tiền tệ khó thực thi hơn và nạn nhân chịu tác động lớn nhất vẫn là người nghèo sống bằng thu nhập tính từng tháng hay từng vụ mùa. Đến 73% dân số đang sinh sống ở nông thôn. Nếu chính sách quay về với cơ bản nâng cao sức mua của nông dân, chính thị trường trong nước sẽ là chỗ dựa vững chắc cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Cuối cùng, về dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, hiện nay nhà đầu tư nước ngoài chỉ nắm khoảng 25% cổ phần của các công ty niêm yết, cả thị trường chính thức và thị trường OTC. Như vậy tổng cộng dòng vốn gián tiếp khoảng 7-8 tỷ đô-la và đa số là loại vốn của các quỹ đóng, không thể rút đi được. Chỉ còn khoảng 2,5 tỷ đô-la vốn nóng cộng với khoảng 5 tỷ đô-la trái phiếu mà người nước ngoài đang nắm giữ. Dragon Capital nhận xét: “Dự trữ ngoại tệ bằng 360% các món nợ nóng nước ngoài”. Các loại thông tin về tỷ giá tiền đồng/đô-la Mỹ dạng NDF tăng cao không liên quan gì đến tỷ giá thực vì chúng chỉ là dạng hợp đồng triển kỳ, mang tính cá cược, đến hạn không thanh toán mà chỉ chung chi phần chênh lệch thiệt-hơn. Hàng loạt thông tin như thế cần giải thích cặn kẽ với người dân bởi biến động trên thị trường chứng khoán, ngoại hối chủ yếu do tâm lý nhà đầu tư trong nước.

Điều quan trọng nhất là một khi chúng ta đã xác định nguyên nhân của tình hình hiện nay là do chính sách tiền tệ, tài khóa và đầu tư của các tập đoàn nhà nước, cần nhất quán và kiên định với các giải pháp đưa ra. Cũng cần lưu ý làm sao để giảm tác động của các hoạt động tài chính lên hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế. Hai bên có mối quan hệ mật thiết nhưng dù sao ở Việt Nam, hoạt động tài chính chỉ mới nổi lên một hai năm gần đây. Giải tỏa vấn đề tâm lý chính là ở chỗ phân định đâu là ưu tiên cần làm với hai lãnh vực này.

Box
16 tỷ đô-la bay hơi đi đâu
Tính toán của WB cho biết thị trường chứng khoán Việt Nam đã mất đi 16 tỷ đô-la so với thời điểm đầu năm. Tuy nhiên, cần thận trọng khi sử dụng cách nói này. Lấy ví dụ công X, lúc mới lên sàn giá trị sổ sách là 100 đồng, giá trị vốn hóa là 1.000 đồng. Sau một thời gian, vì giá cổ phiếu X sụt giảm nên giá trị vốn hóa chỉ còn 200 đồng. Chúng ta có thể nói 800 đồng đã bay hơi nhưng 800 đồng đó chỉ là vốn ảo. Đầu tiên, hầu hết các công ty niêm yết ở Việt Nam vẫn cổ đông lớn nhất là Nhà nước, số cổ phiếu này hầu như không được giao dịch. Với nhiều cổ đông khác, cổ phiếu cũng được nắm giữ dài hạn ngay từ đầu nên cho dù có lúc tổng giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam lên đến gần 29 tỷ đô-la thì chỉ có một lượng nhỏ cổ phiếu được đưa ra giao dịch. Với từng nhà đầu tư thứ cấp thì rõ ràng tiền mất ở người này đã chạy sang túi của người khác.
Dù vậy, cách nói 16 tỷ đô-la không cách mà bay cũng giúp chúng ta hình dung được cái ảo tưởng giàu có của nhiều người trong năm qua. Ảo tưởng này có cả từ những cổ đông là tập đoàn nhà nước có đầu tư tài chính ở công ty khác – dù vốn trên sổ sách vẫn giữ nguyên nhưng vốn tính theo giá thị trường bỗng tăng nhiều lần. Sự giàu có bất ngờ này đã thúc đẩy họ vay vốn và đầu tư tràn lan. Ở nhà đầu tư cá nhân cũng vậy, khi thấy mình bỗng giàu lên nhanh chóng, họ rất dễ có xu hướng chuyển sang đầu tư địa ốc và mua sắm đồ dùng đắt tiền. Sự ảo tưởng này đã góp phần gây ra những khó khăn của nền kinh tế hiện nay.

Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2008

Su bat luc la cua tat ca

Sự bất lực là của tất cả

Nguyễn Vạn Phú

Phê phán việc chêm từ tiếng Anh vào văn viết hay văn nói, nhất là của giới trẻ là chuyện dễ làm, lại thường được sự đồng tình của mọi người. Nhưng tìm cho ra các biện pháp thay thế mới là chuyện đại khó.

Có lẽ phải phân biệt các trường hợp chêm từ tiếng Anh để dễ thảo luận. Cách viết như “Ngành tin học đang là ngành hot hiện nay”, “Một phong cách rất xì-tin” là sai hoàn toàn rồi. Cũng vậy, lối nói chêm thêm tiếng Anh một cách vô tội vạ của khá nhiều bạn trẻ hiện nay (tôi thấy không có problem gì) chỉ là biểu hiện của một sự lười nhác tư duy ngôn ngữ ở họ - và chính họ sẽ bị người nghe đánh giá trình độ qua cách nói nửa Tây nửa ta không giống ai này.

Ở đây chỉ xin nói về những trường hợp chẳng đặng đừng phải dùng tiếng Anh vì nếu cố ý dùng tiếng Việt sẽ bị xem là không giống ai. Ví dụ về loại từ này khá nhiều, nhất là trong tin học. Giả thử bạn viết: “Hôm qua tôi đã gởi thư điện tử cho anh rồi đấy”, chắc chắn người tiếp nhận thông tin phải ngẩn người một lúc vì hiện nay ai nấy đều dùng từ gởi email hay gởi mail một cách thoải mái như thể nó là từ tiếng Việt. Trong văn tài chính, chứng khoán cũng đã xuất hiện nhiều từ không thể nào dùng tiếng Việt thuần túy. Ngay chính văn bản nhà nước cũng dùng từ IPO (phát hành cổ phần lần đầu tiên ra công chúng) mà không chú thích gì cả. Có lẽ người nào cẩn thận lắm cũng chỉ viết “Tổng thu nhập quốc dân” một lần rồi mở ngoặc và sau đó sẽ dùng từ GDP cho gọn và cho mọi người dễ tiếp nhận thông tin (chứ không thể viết tắt TTNQD).

Người viết bài này rất dị ứng với thái độ xem ngôn ngữ là một cái gì đó bất di bất dịch, phải tuân theo quy luật, quy tắc. Chẳng hạn, có thời có người khăng khăng đòi phải viết “chúng cư” mới chính xác thay vì “chung cư” vì “chúng cư” mới đúng là từ Hán Việt mang nghĩa “nơi ở của nhiều người”. Quan điểm này không đợi ai phản đối cũng đã bị cuộc sống gạt sang một bên, đơn giản vì ngôn ngữ có đời sống riêng của nó, cũng tiến hóa, cũng có chọn lọc sinh tồn.

Vì thế, một khi một từ ngoại nhập nào đó được số đông chấp nhận, đã đi vào cuộc sống một cách suôn sẻ thì cách tốt nhất là chấp nhận nó, đưa nó vào kho từ vựng tiếng Việt của chúng ta.

Vấn đề ở chỗ nếu cứ suy theo quy luật này, hóa ra cách nói nửa Tây nửa ta ở đầu bài cuối cùng cũng phải chấp nhận hay sao? Không lẽ thấy một người nói “Tớ không sure cho lắm”, chúng ta không thấy có vấn đề gì cả sao? Nếu chúng ta dùng từ IPO trong văn phong kinh tế không chút áy náy thì biết lấy lý do gì để phê phán cách dùng từ “teen” như trên nhiều tờ báo nhắm đến độc giả trẻ?

Ngày xưa, những học giả xuất sắc như Giáo sư Hoàng Xuân Hãn với tác phẩm “Danh từ khoa học” đã giúp đặt ra, phổ biến, san định cách dùng những từ tiếng Việt mới, giúp tạo ra sự thống nhất trong cách dùng từ và làm phong phú kho từ vựng tiếng Việt. Ngày nay những công trình như thế rất hiếm hoi, nếu không nói là hầu như vắng bóng. Những nỗ lực của từng cá nhân hay từng nhóm không đem lại sự thống nhất như thế và rất nhiều từ không được cuộc sống thừa nhận để sử dụng rộng rãi. Ví dụ đối với file đã có những từ tiếng Việt như “hồ sơ”, “tệp tin”, “tập tin” nhưng thử hỏi ngoài sách tin học, có ai trong ngôn ngữ thường ngày, kể cả nói lẫn viết, dùng chúng một cách thoải mái không.

Như vậy, trước khi trách cứ việc sử dụng tiếng Việt chêm tiếng Tây vô tội vạ, thiết nghĩ xã hội cần những phong trào thực chất với những công trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu để làm công việc “san định” như Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từng làm. Hiện nay từ ngữ trong những lãnh vực như quản trị kinh doanh, tài chính-chứng khoán, ngân hàng… còn rất mông lung, mỗi tác giả dùng một cách, không ai chịu ai. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy các bài viết nghiêm túc đều phải mở ngoặc chú thích thêm tiếng Anh hoặc tiếng Pháp sau một từ chưa được thừa nhận phổ biến. Trong khi đó các cuốn tự điển Anh-Việt đều dường như ngừng lại với nghĩa đã dùng cách đây vài chục năm; ít có tự điển nào ra ấn bản mới cập nhật hằng năm, tìm cách dịch hay thêm nghĩa mới cho những từ được dùng theo nghĩa mới.

Sẽ có người lập luận, ngôn ngữ là một cơ chế tự sàng lọc, những từ “lai căng” sẽ bị đào thải, mọi việc đâu sẽ vào đó. Nhưng nếu không có sự chủ động thúc đẩy sự sàng lọc này, chính chúng ta đang tỏ ra bất lực chứng kiến sự nghèo đi của ngôn ngữ và kèm theo đó là sự nghèo đi của một nền văn hóa.

Như là một khởi đầu, xin đề nghị các tờ báo lớn (kể cả các đài truyền hình) ngồi lại với nhau, thảo luận và thống nhất cách dùng từ trong một số trường hợp đang gây tranh cãi. Sau một thời gian có thể mở rộng ra để thống nhất cách viết chuẩn, quy định loại trừ những cách dùng tiếng Việt sai, những lối nói làm hỏng sự trong sáng của tiếng Việt. Đây chính là lực lượng có tác động mạnh đến việc chấp nhận hay không chấp nhận một cách dùng từ của cả xã hội. Khi báo chí vẫn còn viết “các fan hâm mộ” (vừa chêm tiếng Anh, vừa thừa) thì không trách gì các ca sĩ sẽ lười suy nghĩ và dùng ngay các từ như live show cho khỏe. Nghĩ cho ra những từ thay thế cho những từ như thế mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa người viết muốn nói là chuyện khó chứ không phải cứ lấy tự điển ra tra cứu và thay thế là xong. Stress là stress chứ không thể dùng “căng thẳng” để thay thế, chẳng hạn.

Nhưng để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt một cách bền vững và khoa học, cần có những nỗ lực ở cấp quốc gia, những nghiên cứu ở các viện ngôn ngữ để làm sao có sự sàng lọc định kỳ, công bố những từ mới được sử dụng rộng rãi, có thể xem là tiếng Việt (để tránh sự dè bỉu một cách không thực tế như trường hợp từ “chúng cư”), hay những từ thuần Việt được sử dụng theo nghĩa mới…

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2008

Ai quyet dinh chi tieu GDP

Ai quyết định “chỉ tiêu” GDP?

Nguyễn Vạn Phú

Đã mấy năm rồi, Trung Quốc cố gắng giảm mức tăng GDP để giảm độ nóng của nền kinh tế phát triển quá mức. Nhưng dù tìm cách đưa ra nhiều biện pháp, GDP của nước này vẫn tăng cao hơn mức họ mong muốn cả vài điểm phần trăm. Ngược lại, những nước đã phát triển như Nhật, muốn GDP tăng chỉ nửa điểm phần trăm thôi cũng đã khó.

Nói chuyện này để thấy tăng trưởng GDP đâu phải là một chỉ tiêu chủ quan, muốn như thế nào sẽ được như thế đó. Chưa thấy nước nào lấy một con số tăng trưởng GDP cụ thể làm mục tiêu mang tính pháp lệnh (do Quốc hội thông qua) như ở nước ta. Có chăng, đầu năm chính phủ các nước đưa ra dự báo để các thành phần kinh tế dựa vào đó mà hoạch định chiến lược trong năm. Và trong năm, thỉnh thoảng họ điều chỉnh dự báo này, cũng nhằm mục đích giúp mọi chiến lược kinh tế - xã hội sát với thực tế hơn. Ví dụ Thủ tướng Lý Hiển Long của Singapore đầu tháng này đưa ra dự báo GDP của Singapore sẽ tăng chậm cho đến hết năm 2009. Mức dự báo cũng rất rộng cho năm 2008 – từ 4% đến 6%. Còn Ngân hàng trung ương Nhật Bản cũng vừa điều chỉnh dự báo GDP nước này sẽ tăng 1,5% thay vì mức 2,1% dự báo trước đó mấy tháng.

GDP là do người dân và doanh nghiệp, kể cả dân doanh hay quốc doanh, kể cả trong nước hay nước ngoài, tạo ra. Hoạt động kinh tế tạo ra mức tăng GDP không phải là hoạt động trực tiếp của Chính phủ, càng không phải của các đại biểu Quốc hội – làm sao những nơi này có thể định ra một mức tăng GDP chủ quan được.

Tuy nhiên cũng đúng là mức tăng GDP tùy thuộc rất nhiều vào các chính sách kinh tế của Chính phủ hoạch định hay do Quốc hội thông qua. Hiện nay, nền kinh tế phát triển quá nóng của Việt Nam trong năm 2007 đang gây ra những vấn đề lớn đặc biệt là lạm phát và nhập siêu. Mong muốn của Chính phủ là giảm sự tăng trưởng quá nóng này, ví dụ tốc độ tăng trưởng tín dụng hay đầu tư nhà nước, để giải quyết vấn đề lạm phát. Và một hệ quả có thể dự báo trước là mức tăng GDP năm nay, vì thế sẽ giảm.

Thay vì bàn luận, tranh cãi việc có nên giảm “chỉ tiêu” tăng trưởng GDP xuống còn 7% như đề nghị của Chính phủ hay không, các đại biểu Quốc hội nên yêu cầu Chính phủ làm rõ những biện pháp nào sẽ được thực hiện để đưa ra con số dự báo 7% này. Các biện pháp đó phải được định lượng cụ thể, ví dụ tăng trưởng tín dụng còn bao nhiêu (và có đạt được mức tối đa 30% như dự kiến không khi 4 tháng đầu năm đã tăng 14% trong khi cùng kỳ năm 2007 chỉ tăng 9%); đầu tư công giảm bao nhiêu, giảm ở những dự án nào (khi đã đến tháng 5 rồi mà tiêu chí xác định dự án công cần cắt giảm vẫn chưa có); thuế nhập khẩu và các loại thuế nội địa khác sẽ như thế nào để hạn chế nhập siêu…. Điều Quốc hội cần quyết là các biện pháp đó chứ không phải con số phần trăm tăng trưởng GDP – một con số đến sau như hệ quả của chính sách.

Tăng trưởng GDP, như đã được phân tích nhiều, chưa hẳn đã đem lại lợi ích cho xã hội vì những dự án lãng phí cũng được tính vào GDP. Thay vì chú tâm đến con số này, Quốc hội nên bàn và có chủ trương giảm bớt khó khăn cho đại đa số người dân đang ngày đêm xoay xở với vật giá leo thang, cho doanh nghiệp đang đương đầu với nhiều khó khăn vì làm ăn ngày càng khó.

Thứ Ba, 13 tháng 5, 2008

Dai dien cho cong luan

Họ chỉ là đại diện của công luận

Nguyễn Vạn Phú

Có hai vấn đề nổi lên từ sự việc hai nhà báo Nguyễn Văn Hải (báo Tuổi Trẻ) và Nguyễn Việt Chiến (báo Thanh Niên) bị bắt hôm thứ Hai vì tội “lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Họ bị bắt vì đưa tin bài về vụ được cho là tham nhũng tại Ban Quản lý dự án 18 (PMU 18).

Trước hết, phải nhìn thẳng vào một cái yếu của làng báo Việt Nam: bị nguồn tin chi phối. Chuyện này không lạ và khá phổ biến. Đôi lúc chỉ nghe một nguồn tin, phóng viên có thể viết một bài ảnh hưởng đến người thứ ba mà không phối kiểm nguồn tin và đặc biệt, khi là tin mang tính phê phán, nhiều phóng viên ít lúc nào hỏi thẳng từ người bị phê phán. Một số bài mang danh là điều tra nhưng thật sự chỉ là chép từ hồ sơ vụ án đang thụ lý. Điều nguy hiểm là từ những thông tin loại này, những người viết báo không chuyên có thể bình luận, lên án người trong cuộc thành một áp lực dư luận mạnh mẽ có thể nhấn một con người tận bùn sâu. Vụ PMU 18 là một trường hợp phức tạp – cho đến nay không ai trong giới nhà báo có thể nói là đã nắm rõ mọi tình tiết. Và vì thế, đã xảy ra sai sót, đã có đính chính. Nhà báo Nguyễn Văn Hải trong một nhận xét (comment) trên blog của đồng nghiệp từ ngày 5-10-2007 đã viết: “Trong dòng thông tin ầm ầm tuôn chảy ở vụ PMU18, có nhiều lý do để báo chí bị cuốn theo, và không phải ai cũng nhận ra được mình bị "cuốn đi" như thế nào - trong đó có tôi”.

Dù gì đi nữa, cái yếu kia, giả thử hai nhà báo trên (đây chỉ là giả thử như vậy) có mắc phải, nó cũng không phải là tội hình sự. Với những thông tin đã công khai trên hai tờ Tuổi Trẻ và Thanh Niên hôm thứ Ba, có thể nói hai nhà báo đã dựa vào nguồn tin để đưa tin, viết bài sai mà sau đó các báo đã đính chính. Đấy là sai sót nghiệp vụ, rất đau xót trong nghề báo vì loại sai sót này có thể ảnh hưởng đến người khác. Chính anh Hải đã viết: “Tôi đau và thấm thía”. Nhưng không thể xem đó là tội “lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Giả thử báo Tuổi Trẻ, báo Thanh Niên đưa tin sai, người bị thiệt hại kiện ra tòa án dân sự, phóng viên phải hầu tòa và chịu trách nhiệm về ngòi bút của mình, thiết nghĩ các phóng viên bị bắt hồi đầu tuần và cả làng báo Việt Nam sẽ “tâm phục, khẩu phục”. Cứ ra trước tòa đối chất, nói hết lý lẽ để nếu nhà báo quên chuyện phối kiểm nguồn tin, họ sẽ được bài học nhớ đời. Nhưng đây là một cuộc điều tra do ngành công an tiến hành, có họp báo, có công bố thông tin – không lẽ nhà báo, người đại diện cho công luận, đem thông tin đến cho công luận lại bị buộc tội “lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Cái sai nếu có là từ nguồn tin có thẩm quyền chứ không phải từ người chuyển tải thông tin.

Chúng tôi nghĩ với việc bắt giam hai nhà báo, cơ quan điều tra cần có một giải thích rõ ràng, sòng phẳng, không chỉ cho bản thân các nhà báo mà còn cho công luận đang trông chờ nhà báo hằng ngày, hằng giờ đem thông tin đến cho họ.

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2008

Hu nhau bang Google

Hù nhau bằng Google

Nguyễn Vạn Phú

Dạo này có khá nhiều bài viết, phát biểu hay nhận xét bắt đầu bằng một câu, đại ý nếu vào Google, gõ dòng chữ xxx, thì xuất hiện cả ngàn (chục ngàn hay cả triệu) trang.

Ví dụ, đây là câu mở đầu bài viết “Gu thời trang của MC Thanh Bạch” trên tờ Thời Trang Trẻ: “Cho đến hôm nay, khi nhắc đến Thanh Bạch, báo chí dường như không bỏ sót bất kỳ một chi tiết nào có liên quan đến anh. Chỉ cần gõ từ khóa "Thanh Bạch" và search trên Google, bạn sẽ thấy có 353.000 kết quả chỉ trong 0,19 giây”.

Còn đây là câu đầu tiên của bài “Há cảo” trên tờ Sài Gòn Tiếp Thị: “Vào Google gõ một cái thì há cảo tràn ra cả mấy chục trang”. Tờ Nghề báo số mới nhất cũng có bài bắt đầu theo lối này: “Vào Google, gõ vào dòng chữ “Công ty truyền thông”, trong vòng 0,33 giây, công cụ tìm kiếm trực tuyến này sẽ cho ra 1.440.000 trang web có chuỗi ký tự ấy”.

Nói vậy mà không phải vậy

Có lẽ điều đầu tiên nhiều người sử dụng Google đã biết là khi tìm một cụm từ, nếu chúng ta để cụm từ này trong ngoặc kép, kết quả sẽ khác hẳn so với không để ngoặc kép. Ví dụ với cụm từ “công ty truyền thông”, nếu tìm theo cách thứ nhất, kết quả chỉ là 676.000 trang so với 1.630.000 trang nếu tìm theo cách thứ hai. Vì khi không để trong ngoặc kép, Google sẽ tìm bất kỳ trang web nào có chứa các từ đó, bất kể chúng ở xa nhau tít mù. Xem một trang ngẫu nhiên trong danh sách tìm kiếm theo cách thứ hai, chúng ta sẽ thấy các từ được tìm nằm trong các cụm từ không liên quan gì, như “thông thường”, “dữ liệu truyền”, “có công”…

Thứ nữa, Google là một công cụ tìm kiếm thông tin rất thông minh - nó trả về kết quả theo thói quen của những người tìm kiếm trước đó (tìm cụm từ “Nguyễn Việt Tiến”, nó sẽ cho kết quả ở những trang đầu tiên liên quan đến ông Nguyễn Việt Tiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải chứ không phải một Nguyễn Việt Tiến bất kỳ vì chính đây là tên được nhiều người trước đó tìm kiếm nhiều). Tuy nhiên, chính điều này làm kết quả tìm kiếm sai lạc không thỏa mãn người cần tìm thông tin. Ví dụ, với từ “há cảo”, đa phần các trang kết quả nói về hệ điều hành Hacao Linux (đây là cụm từ được tìm nhiều hơn món ăn há cảo). Và khi “tiền sử” tìm kiếm của mọi người là như nhau, không có một xu hướng nào vượt trội thì kết quả không phân biệt nghĩa của từ này với từ khác. Trong 353.000 trang có cụm từ “Thanh Bạch”, sẽ có rất nhiều trang có cụm từ này nhưng dùng với nghĩa “trong sạch và giữ được tiết tháo”. Chú ý, nếu dùng Google bình thường kết quả sẽ khác với khi dùng Google Toolbar. Với Google Toolbar, kết quả dựa vào các lần tìm kiếm trước đó nhiều hơn bội lần.

Như vậy chúng ta có thể kết luận các cách nói như minh họa ở đầu bài không chính xác, không có ý nghĩa thống kê gì hết cho dù cụm từ được tìm kiếm đã được cẩn thận bỏ trong ngoặc kép. Tốt nhất nên bỏ lối so sánh này vì nó rất sai lạc mà lại thường được dùng để chứng minh cho một điểm nào đó.

Tìm là thấy

Với những người dùng Google để tìm kiếm thông tin thật sự, những thủ thuật nhỏ, những mánh lới khai thác Google sẽ giúp họ tìm ra thông tin cần tìm nhanh hơn, hiệu quả hơn. Nếu cụm từ mà chúng ta bỏ trong ngoặc kép để tìm càng dài, càng chi tiết, khả năng tìm đúng ngay thông tin chúng ta cần sẽ cao hơn. Nếu chúng ta thêm thành cụm từ “món há cảo”, kết quả sẽ trả về toàn những trang có nhắc đến món thức ăn này. Cũng có những trang nhắc đến “món há cảo” trong một bút ký hay truyện ngắn, không phải là trang chúng ta cần tìm. Nếu mở rộng thành hai cụm “món há cảo” và “cách chế biến” (cả hai đều để trong ngoặc kép) thì chúng ta sẽ tìm thấy một trong các trang đầu tiên bàn đúng đến thông tin chế biến món ăn này.

Tương tự, với nghệ sĩ “Thanh Bạch”, nếu chúng ta thêm từ MC thành “MC Thanh Bạch”, kết quả sẽ chính xác hơn nhiều. Nói khái quát, chúng ta nên xác định thông tin cần tìm là gì, hình dung trong trang web cần tìm chắc chắn sẽ có những cụm từ nào, xong rồi gõ càng nhiều cụm như thế càng tốt (trong ngoặc kép), cơ hội tìm ra thông tin sẽ nhanh hơn. Nếu cần nên kết hợp nhiều cụm từ, thêm bớt nhiều lần để tinh chỉnh kết quả. Nhiều lúc phải dùng một lúc nhiều thủ thuật (xem chi tiết ở bài bên cạnh) mới tìm ra điều chúng ta cần tìm. Nhiều người cũng hay quên Google có công cụ tìm ảnh riêng, nên vào đây khi muốn tìm ảnh và khi muốn tìm thông tin mang tính thời sự nên vào news.google.com sẽ tìm nhanh hơn, chính xác hơn.

Cũng nên lưu ý, tìm ngay trong các trang web cụ thể, kết quả sẽ chính xác hơn dùng Google. Ví dụ chúng ta biết chắc thông tin cần tìm nằm trong trang web của báo Tuổi Trẻ điện tử, nên vào chính ngay trang này và sử dụng công cụ tìm kiếm của chính trang đó.



Các thủ thuật Google
Các thủ thuật này đã phổ biến trên nhiều trang web, xin tóm tắt những thủ thuật thường dùng nhất. Lúc nào không nhớ hết những thủ thuật này, chúng ta có thể vào phần Google Advanced Search là dễ nhất.
- Dùng dấu -: Đôi lúc Google trả về kết quả theo xu hướng tìm kiếm nên không thỏa mãn nhu cầu của chúng ta. Gặp trường hợp này, nên dùng dấu - trước cụm từ không muốn xuất hiện. Ví dụ muốn tìm người bạn cũ tên “Hồ Ngọc Hà” mà không phải là cô ca sĩ nổi tiếng, cứ thử gõ thêm -“ca sĩ” xem sao.
- Tìm trong tiêu đề: Khi biết chắc thông tin cần tìm xuất hiện trong tiêu đề trang web, chúng ta nên sử dụng cách gõ: intitle:“thông tin cần tìm”.
- Tìm trong một trang web cụ thể: Đôi lúc chúng ta chỉ tìm thông tin trong một trang web đã xác định, lúc đó nên gõ: “thông tin cần tìm” site:địa chỉ của trang web đó. Nhớ là sau dấu hai chấm không có dấu cách.
- Tìm trong một loại tập tin cụ thể: Nếu chúng ta biết mình chỉ cần tìm thông tin đó trong tập tin Microsoft Word (.doc) hay Acrobat (.pdf) thì hãy gõ: filetype:doc “Thông tin cần tìm” hay filetype:pdf “Thông tin cần tìm”.
- Dùng Google như một máy tính bỏ túi: Nếu cần chúng ta cứ gõ ngay vào ô tìm kiếm của Google (ví dụ 2+3 hay 2^20), Google sẽ cho ra kết quả tính toán ngay. Tương tự, nếu chúng ta gõ “3 USD in Vietnamese dong” sẽ thấy trang web này tính toán chuyển đổi ngoại tệ luôn cho chúng ta.

Bài đăng phổ biến