Thứ Năm, 3 tháng 3, 2011

Thiếu công bằng trong tăng giá điện

Thiếu công bằng trong tăng giá điện

TBKTSG số ra tuần này có bài “Thiếu công bằng trong tăng giá điện” của Vũ Thành Tự Anh, theo tôi, đã đưa ra những nhận xét rất đáng lưu ý. Qua những con số tính toán cụ thể, tác giả cho rằng tính theo biểu giá mới, một hộ gia đình càng tiêu dùng nhiều điện thì tỷ lệ tiền điện phải đóng thêm càng ít hay nói cách khác người nghèo sẽ chịu mức tăng giá điện cao hơn người giàu. Có thể đọc bài này tại đây.

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2011

Ông nói xuôi, bà nói ngược

Ông nói xuôi, bà nói ngược

Nếu các giải pháp Chính phủ đưa ra có tác dụng tâm lý tích cực bao nhiêu thì các phát biểu ngược nhau của các quan chức lại phá tan tính tích cực đó bấy nhiêu.

Ông Lê Đức Thúy, Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cứ khơi khơi trả lời phỏng vấn báo chí, rằng nhất thiết phải nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên.

Ông Nguyễn Văn Giàu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phản bác ngay, nói bây giờ mà tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên là điều không tưởng. Chắc ổng cũng bực, mình là Thống đốc, sao có người cứ xía vô chuyện điều hành nên mới nói: “Chỉ có ngân hàng trung ương mới biết được và có quyền lựa chọn giải pháp nào là phù hợp”.

Ông Nguyễn Sinh Hùng, Phó Thủ tướng, tuyên bố với báo chí, hiện nay, số dư tài khoản ngoại tệ của các doanh nghiệp và ngân hàng thương mại lên tới 21 tỉ USD. Vì ông không tách bạch giữa doanh nghiệp với ngân hàng nên không ai biết ngân hàng đang giữ bao nhiêu ngoại tệ nhưng chắc cũng là con số lớn lắm.

Ngược lại, ông Giàu khẳng định: Ngân hàng Nhà nước chưa phát hiện ngân hàng nào găm giữ ngoại tệ. Ông còn nói rõ hơn: trạng thái ngoại hối của các ngân hàng thương mại trước khi điều chỉnh tỷ giá, trạng thái ngoại tệ của toàn hệ thống dương 1,58%, sau khi điều chỉnh trạng thái âm 1,16%.

Đặc biệt là trường hợp ông Lê Đức Thúy. Ông này nhiều lúc trả lời phỏng vấn báo chí như một người ngoài cuộc. Chẳng hạn ông nói: “Chúng ta giữ lại lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn quá thấp. Những ngân hàng lớn mua trái phiếu chính phủ thậm chí cao hơn lãi suất huy động, chịu lỗ một chút sau đó lên thị trường liên ngân hàng cho vay lại 15-20%. Họ kiếm lời trên lưng nhà nước”. Đó là chính sách tiền tệ do ông giám sát, nếu có lổ hổng như thế một phần do ông giám sát chưa tốt, sao lại đổ lỗi cho ngân hàng “kiếm lời trên lưng nhà nước”?

Hay ở chỗ là có lúc ông đề nghị nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên, lúc thì nói chống lạm phát ở đây không đồng nghĩa với việc thắt chặt chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và để cho doanh nghiệp không sống nổi. Nói được như vậy thì giỏi thiệt.

* * *

Nhân đây cũng xin nói một chút về chuyện cấm kinh doanh vàng miếng ngoài thị trường tự do.

Phải nói người dân nước ta có sức chịu đựng rất tốt. Ở nước khác khi nhà nước tuyên bố cắt giảm chi tiêu ngân sách, người dân nước họ sẽ phản đối ngay nhưng người dân nước ta lại hoan nghênh, chấp nhận thắt lưng buộc bụng để chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô theo kêu gọi của nhà nước.

Thế nhưng nếu không khéo, đưa ra những kế hoạch kiểu như cấm kinh doanh vàng miếng sẽ có tác dụng ngược, hiệu quả tâm lý tích cực bị triệt tiêu mất.

Hiện nay vàng miếng được sử dụng như một loại ngoại tệ ở Việt Nam và vì thế đang cộng hưởng với đô-la Mỹ gây ra những xáo động trên thị trường tiền tệ. Đô-la Mỹ thì Nhà nước có thể quản lý tỷ giá, ấn định ở mức mong muốn nhưng vàng thì không. Tỷ giá đô-la trên thị trường tự do vừa tác động vào giá vàng trong nước, đồng thời giá vàng trong nước lại phản ánh tỷ giá tự do này. Cấm kinh doanh vàng miếng tức là giảm được những tác động ngoại ý này.

Đó là ý muốn. Nhưng liệu một nghị định cấm kinh doanh vàng miếng như thế có đạt được ý muốn này không?

Chắc chắn là không.

Bởi nếu không sử dụng được vàng miếng để bảo toàn tài sản, người dân sẽ quay sang vàng nữ trang. Và lúc đó sẽ có những loại vàng nữ trang y chang vàng miếng. Ví dụ người ta sẽ đục thêm một cái lỗ giữa miếng vàng bốn số chín của SJC và nói đây là loại nữ trang đời mới thì sao?

Không dùng vàng nữ trang thì người ta sẽ quay sang địa ốc, ngoại tệ khác hay bất kỳ một tài sản nào khác, miễn sao tính mua bán dễ dàng, chênh lệch giá mua bán không lớn như vàng miếng. Lúc đó không lẽ sẽ có những nghị định khác, lần lượt cấm các loại tài sản này?

Ngược lại, nếu một nghị định như thế ra đời, tâm lý người dân sẽ bị tác động mạnh, giới kinh doanh với đủ chiêu thức vẫn sẽ kinh doanh được và mức lời sẽ tăng vọt trong khi thiệt hại sẽ nghiêng về phía người dân, chẳng hạn chênh lệch giá mua bán vàng sẽ tăng mạnh trong một thị trường mua bán chui.

Theo tôi, không nên có một nghị định như thế mà chỉ cần cấm kinh doanh vàng ảo, từng một thời gây ra những xáo động to lớn. Nếu tỷ giá ổn định, giá vàng trong nước liên thông với giá vàng quốc tế thì không việc gì phải để ý đến nó nữa.

Các báo lúc đó cũng sẽ giảm bớt tin tức về giá vàng. Ở các nước khác, không có chuyện biến động giá vàng cứ được đưa tin đậm như ở Việt Nam.

Thứ Hai, 28 tháng 2, 2011

Thuyết âm mưu và Facebook

Thuyết âm mưu và Facebook

Thuyết âm mưu (conspiracy theories) là cách lý giải những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội theo hướng gán cho chúng những âm mưu bí mật của các thế lực ngầm đứng đằng sau. Ví dụ, giới theo thuyết âm mưu cho rằng Tổng thống Kennedy bị ám sát là do có bàn tay của CIA hay Mafia Mỹ đứng đằng sau. Danh sách những thuyết âm mưu hấp dẫn rất dài, như phi thuyền Apollo không hề đáp cánh trên Mặt trăng, căn bệnh AIDS là do con người chế tạo ra, người ngoài hành tinh từng đến thăm Trái đất nhưng Chính phủ Mỹ giấu biệt…

Thuyết âm mưu nghe qua rất hấp dẫn, ly kỳ nên được nhiều người tin theo, bàn tán, thêm mắm thêm muối. Đáp ứng nhu cầu tò mò, phức tạp hóa vấn đề của người dân, báo chí lá cải thường xuyên đăng các câu chuyện do giới theo thuyết âm mưu kể hay phân tích. Còn giới nghiên cứu học thuật nghiêm túc thì tránh xa, ít ai muốn dây vào vì rất khó cãi lý lẽ với những người theo thuyết âm mưu.

Riêng về chuyện Facebook được cho là công cụ của CIA thì đầy ở trên mạng từ nhiều năm nay. Đây là loại chuyện theo thuyết âm mưu nên nó chỉ lưu truyền trong giới thích các âm mưu ly kỳ, ít khi xuất hiện trên báo chí chính thống. Thỉnh thoảng nó lại được báo chí nghiêm túc đề cập, theo kiểu tường thuật những dư luận âm ỉ trên mạng, chứ không phải họ cổ súy cho lối biện giải này.

Bài “Facebook – the CIA Conspiracy” trên tờ New Zealand Herald là thuộc loại đó, viết từ năm 2007. Đây là thời điểm thiên hạ đang quan tâm đến chuyện hai anh em Winklevoss kiện Mark Zuckerberg vì cho rằng anh chàng sinh viên Harvard này ăn cắp ý tưởng Facebook của họ. (Xem thêm bài “Kiện tụng quanh việc ra đời Facebook” tôi viết vào năm ngoái). Khai thác quanh chuyện kiện thì hết chi tiết mới rồi nên New Zealand Herald mới quay qua khai thác thuyết âm mưu về Facebook và CIA, viết theo kiểu nửa đùa nửa thật, cho ly kỳ, theo đúng phong cách thuyết âm mưu.

Vậy mà Tạp chí Cộng sản lại trích dịch bài này như một chuyện sự thật hiển nhiên với cái tít “Facebook-Công cụ bí mật của Cục tình báo trung ương Mỹ”. Chỉ mấy ngày sau, bài báo này đã bị gỡ xuống, chắc Tạp chí Cộng sản đã thấy sự vội vàng (dân gian gọi là nhanh nhẩu đoản) trong xử lý thông tin rồi.

Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2011

Sex training tour?

Sex training tour?

Sáng thứ Hai đầu tuần, đọc được mẩu tin trên báo Thanh Niên “Khởi động Sex Training Tour 2011” thiệt là giúp đỡ căng thẳng đầu óc. Tin này thật ra được nhiều báo đăng, nói về Chương trình giáo dục giới tính do Đoàn trường Cao đẳng Thương mại TP Đà Nẵng phối hợp với công ty cổ phần du lịch Việt Đà tổ chức.

Haha. Sao hết cách đặt lại đặt cho chương trình một cái tên như thế?

“Sex training” hàm ý huấn luyện kỹ năng làm tình, nghệ thuật làm tình!

Còn giáo dục giới tính phải gọi là “sex education”.

Bên Mỹ người ta cũng tranh cãi về hai khái niệm “training” và “education” và câu nói thường được đem ra để minh họa cho sự khác nhau giữa hai khái niệm này là câu: “Do you want your 14 year old daughter to attend a sex EDUCATION class, or a sex TRAINING class?”

Tức là cho dù có nghĩ “training” với “education” giống nhau đi nữa thì người ta cũng không thể bỏ qua yếu tố khác nhau giữa chúng khi dùng trong ngữ cảnh “sex training” và “sex education”.

Thôi, tốt nhất là đổi tên chương trình và tốt hơn cả là dùng tiếng Việt cho khỏe.

Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011

Những hiểu nhầm về CPI

Những hiểu nhầm về CPI

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) coi bộ rất đơn giản nhưng vẫn có nhiều người bị nhầm. Giới viết báo thì khỏe vì chỉ cần dựa vào số liệu của Tổng cục Thống kê công bố mà đưa tin nhưng nếu không cẩn thận nhiều lúc sẽ nhận định sai.

Ví dụ, giả thử CPI tháng 1, tháng 2, tháng 3 đều tăng 1%, các bạn đoán thử CPI quý 1 tăng bao nhiêu? Chắc rất nhiều bạn sẽ nói tăng 3%. Không đúng rồi.

Giả thử CPI kỳ gốc là 100, tháng 1 tăng 1% tức bằng 101 nhưng tháng 2 tăng 1% là tăng trên con số 101 chứ không còn là 100 nữa nên hai tháng CPI sẽ tăng 2,01% (chứ không phải là 2%) và CPI cộng dồn 3 tháng sẽ tăng 3,03%.

Chính vì vậy nên CPI tháng 1-2011 là 1,74%, CPI tháng 2-2011 là 2,09% mà CPI hai tháng đầu năm được Tổng cục Thống kê công bố là tăng 3,87% (chứ không phải lấy 1,74% cộng 2,09% ra thành 3,83).

* * *

Nhiều bạn cũng thắc mắc vì sao báo chí nước ngoài, mỗi khi đưa tin chỉ số giá Việt Nam lại dùng con số khác báo chí trong nước. Ví dụ, một bản tin viết: The country's inflation rate reached 12.17 per cent in January, according to figures released by the General Statistics Office in Hanoi.

Đó là bởi thông lệ quốc tế, mỗi khi nói mức tăng chỉ số giá, họ thường dùng con số so sánh với cùng kỳ năm ngoái, tức là tính mức tăng CPI trong 12 tháng gần nhất. Vì thế họ viết chỉ số giá Việt Nam tháng 1-2011 tăng 12,17%, tháng 2-2011 tăng lên 12,31%. Vì sao tháng 2, CPI tăng 2,09% mà báo chí nước ngoài đưa tin chỉ tăng lên thêm chút xíu vậy? Vì đã tính chu kỳ 12 tháng, thêm tháng 2-2011 thì phải trừ đi tháng 2-2010 (lúc đó CPI tăng 1,96%) đi chớ.

Theo tôi, báo chí và các cơ quan trong nước cũng nên công bố và nhấn mạnh con số cùng kỳ này bởi nó loại trừ được yếu tố thời vụ (những tháng gần Tết giá tăng mạnh, từ tháng 4 đến tháng 8 giá tăng ít hơn nhiều). Nhờ vậy cũng giảm bớt yếu tố tâm lý trong những tháng giá tăng nhiều (bởi trừ đi tháng cùng kỳ năm trước cũng tăng mạnh không kém).

Công bố theo cách này cũng loại trừ cách tính ngược của nhiều người (đại khái nói chỉ còn tăng được chừng này, chừng này là vượt mức chỉ tiêu…) vì nói ngược như thế nhiều lúc không chính xác.

Ngoài ra, làm quen với cách công bố theo thông lệ quốc tế, phóng viên cũng không dịch sai khi đọc những bản tin lạm phát các nước. Ví dụ, đọc những câu này: “Singapore’s inflation rate rose to a two-year high of 5.5 percent in January, after climbing 4.6 percent in December”; “Malaysia’s inflation rate rose to 2.4 percent in January”; “India’s food inflation accelerated for the first time in three weeks to 11.49 percent in the week ended Feb. 12”… rất dễ hiểu nhầm lạm phát tháng Giêng của Singapore là 5,5%, tháng 12-2010 là 4,6%... rồi nghĩ lạm phát mấy nước láng giềng cũng cao ngất ngưỡng thì mệt.

* * *

Cuối cùng một điều rất đáng lưu ý trong mức tăng chỉ số giá ở Việt Nam nhưng chưa thấy ai phân tích gì nhiều. Đó là trong khi CPI các thành phố lớn tăng mạnh (CPI của TPHCM tăng 1,61%; Hà Nội tăng 1,98% trong tháng 2 so với tháng 1) nhưng CPI cả nước còn tăng mạnh hơn (2,09%), trong đó tăng mạnh nhất là vùng Tây Bắc (đến 2,61%). Điều đó cho thấy mức sống của người dân nông thôn ngày càng khó khăn, người nghèo lại càng vất vả hơn.

Lý do chỉ số giá vùng nông thôn cao hơn ở các thành phố lớn có thể vì chi phí vận chuyển hàng hóa cao hơn, hệ thống phân phối chưa tốt nhưng cũng có thể do ở TP Hồ Chí Minh và Hà Nội có các chương trình bình ổn giá. Nếu vậy, có thể kết luận các chương trình bình ổn giá đang tạo ra sự bất bình đẳng cho người dân cả nước, người nghèo ở nông thôn không tiếp cận được sự hỗ trợ này nên lạm phát càng tạo thêm gánh nặng cho họ.

Thứ Tư, 23 tháng 2, 2011

Tỷ giá

Tỷ giá

Bài "Làm thế nào để chặn đà tăng tỷ giá?" đã đăng trên TBKTSG. Có thể đọc ở đây.

Thứ Ba, 22 tháng 2, 2011

Đủ loại lãi suất

Đủ loại lãi suất

Cuối cùng Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ đã bày tỏ thái độ dứt khoát, không chịu chìu theo những ý kiến khuyên ngược đời “giảm mạnh lãi suất để chống lạm phát”. Thông điệp chính thức đã được phát ra: không đặt mục tiêu giảm lãi suất trong ngắn hạn nữa. Thay vào đó là áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm đầu tư công, giảm chi ngân sách, để tập trung giảm lạm phát là ưu tiên hàng đầu.

Tuy nhiên, người bình thường như chúng ta nghe các cụm từ như “lãi suất tái cấp vốn”, “lãi suất tái chiết khấu” chắc cũng lùng bùng lỗ tai, không hiểu chúng là gì, chúng tác động đến túi tiền của chúng ta như thế nào.

Các quan chức khi trả lời cho giới báo chí, không chịu dùng những từ ngữ dễ hiểu để chuyển tải thông điệp cần chuyển tải đến người dân vì họ quen với các khái niệm này rồi cũng như đã quen nhìn các vấn đề dưới góc độ người quản lý. Giới báo chí nghe sao viết vậy chứ cũng ít khi chịu khó viết tin bài từ góc độ người dân tiếp cận thông tin để diễn giải sao cho dễ hiểu.

Thôi chúng ta đành tự tìm hiểu với nhau vậy. Quan trọng là để xem tác động của các chính sách sắp tới sẽ như thế nào.

Để chống lạm phát, cần phải rút bớt tiền trong lưu thông về. Muốn rút tiền về thì phải tăng lãi suất. Nhưng lãi suất có nhiều loại.

Cách đây một tuần Ngân hàng Nhà nước tuyên bố nâng “lãi suất tái cấp vốn” lên 11% từ mức cũ là 9%.

Nghe cụm từ “tái cấp vốn”, ắt chúng ta sẽ nghĩ đến chuyện trước đó cấp vốn rồi, bây giờ vì sao đó nên cấp vốn lại. Thêm nữa, nghe “lãi suất tái cấp vốn” áp dụng cho giới ngân hàng, chắc ai cũng tin cách hiểu trên là đúng. Thật ra không phải.

Ngân hàng A cho doanh nghiệp vay 1 tỷ đồng để kinh doanh, chưa đến hạn nhưng ngân hàng A gặp khó khăn trong thanh khoản thì có thể lấy bộ hồ sơ cho vay nói trên đến Ngân hàng Nhà nước vay tiền, thế chấp bằng bộ hồ sơ này. Lãi suất phải trả cho Ngân hàng Nhà nước là “lãi suất tái cấp vốn” (refinancing rate).

Cũng vay tương tự như vậy nhưng đem trái phiếu chính phủ đã mua trước đó, thế chấp để vay vốn Ngân hàng Nhà nước thì phải áp dụng “lãi suất tái chiết khấu”. Lãi suất tái chiết khấu này vẫn giữ nguyên là 7%.

TS Phạm Thế Anh đã bình luận trên tờ SGTT rằng “quyết định nâng lãi suất tái cấp vốn, trong khi giữ nguyên lãi suất tái chiết khấu, sẽ tiếp tục duy trì cầu về trái phiếu chính phủ. Và thực chất, nó chỉ hạn chế tín dụng đối với khu vực tư nhân chứ không hạn chế tín dụng đối với chính phủ, hay đằng sau đó là các tập đoàn kinh tế lớn”.

Như thế, có lẽ chúng ta đã hiểu vì sao Ngân hàng Nhà nước nâng “lãi suất tái cấp vốn” trong khi vẫn giữ nguyên “lãi suất tái chiết khấu”. Ngoài ra, dư luận hiện chưa phải đã đồng tình chuyện tăng lãi suất nên Ngân hàng Nhà nước buộc phải thận trọng tăng lãi suất từ từ, tăng loại lãi suất ít có tác dụng lên thị trường trước, các loại khác tính sau.

Hôm qua, Ngân hàng Nhà nước lại tăng lãi suất chào mua các loại giấy tờ có giá (như trái phiếu chính phủ, chẳng hạn) trên thị trường mở lên 12% cho loại có kỳ hạn 7 ngày (báo chí nước ngoài gọi đây là lãi suất repo ngược, gọi tắt là lãi suất nghiệp vụ thị trường mở). Theo TS Lê Hồng Giang (trên blog của anh) thì đây chính là lãi suất chủ yếu để các ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ. Hai loại lãi suất trên (tái cấp vốn với tái chiết khấu) chỉ có chức năng trợ giúp thanh khoản cho các ngân hàng riêng lẻ.

Thế còn “lãi suất cơ bản”? Sao không thấy động chạm gì đến loại lãi suất chúng ta thường nghe nhắc đến trong những năm trước?

Về loại lãi suất này, tôi đã có viết trong bài “Lại chuyện lãi suất cơ bản”. Xin trích lại mấy đoạn có liên quan:

Nước nào cũng phải sử dụng một số công cụ để thực thi chính sách tiền tệ nhằm đạt được những mục tiêu nào đó, như kiềm chế lạm phát chẳng hạn. Lãi suất là một công cụ như thế bên cạnh công cụ tăng giảm dự trữ bắt buộc. Thông thường ngân hàng trung ương một nước tác động lên lãi suất bằng con đường gián tiếp, có nghĩa thông qua nghiệp vụ thị trường mở để tăng hay giảm tổng phương tiện thanh toán. Ví dụ, ngân hàng trung ương mua vào trái phiếu chính phủ, tức làm tăng tổng lượng tiền trong lưu thông thì lãi suất thị trường sẽ giảm. Cũng có thể tác động trực tiếp bằng cách tăng hay giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu – là những loại lãi suất ngân hàng trung ương ấn định trong quan hệ mua bán các loại giấy tờ có giá với ngân hàng thương mại.

Nói cách khác, lãi suất cơ bản như đang được định nghĩa (là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh) hoàn toàn không phải là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia đúng nghĩa như thông lệ quốc tế.

Chính vì thế mà thời gian vừa qua Ngân hàng Nhà nước đã giảm nhẹ tầm quan trọng của loại lãi suất này.

Bài đăng phổ biến