Thứ Tư, 12 tháng 11, 2008

Dien toan dam may

Điện toán đám mây

Vân Cầm

Nền công nghệ thông tin sẽ sang trang mới cùng với khái niệm “điện toán đám mây” (cloud computing). Đây là khái niệm có tầm ý nghĩa ngang với việc chuyển đổi từ điện toán trên máy mainframe của IBM ngày trước sang máy tính cá nhân kéo theo sự hưng thịnh của Microsoft. Nay có lẽ là thời “lên mây” của Google?

Điện toán đám mây là gì

Vào giữa thập niên 1990, người viết bài này phải loay hoay dùng các phần mềm dạng dBase để lưu từng tấm danh thiếp của bạn bè, đối tác… Cái cơ sở dữ liệu thô sơ ấy đã từng tỏ ra đắc dụng khi chỉ cần một vài thao tác, người viết tìm ra ngay số điện thoại hay địa chỉ của một công ty. Nay không ai làm theo cách này nữa. Trên Internet đã có sẵn hàng chục trang chuyên cung cấp dịch vụ tìm kiếm thông tin trên danh bạ công ty, có thể truy cập được từ máy tính cơ quan, máy xách tay ở ngoài, điện thoại di động hay thậm chí một máy nghe nhạc có wifi như iPod Touch. Như vậy, trong lãnh vực này, có thể nói điện toán đám mây đã hiện diện – công nghệ thông tin chuyển từ máy tính để bàn với phần mềm cài trên máy, dữ liệu lưu trong máy, người sử dụng ngồi trước máy bây giờ đã “lên các đám mây trên trời” vì dữ liệu nằm đâu đâu trong không gian ảo, phần mềm cũng vậy, còn máy để truy cập chúng có thể là bất kỳ loại gì chứ không nhất thiết là máy tính cá nhân nữa.

Đây là một minh họa đơn giản hóa khái niệm “điện toán đám mây”. Tùy người sử dụng hay mục đích sử dụng, khái niệm này sẽ có những ý nghĩa khác nhau. Đơn giản nhất là việc chuyển từ một phần mềm email cài trong máy như Outlook Express sang một dịch vụ email trên mạng như Gmail hay Hotmail. Có lẽ ai từng dùng Gmail cũng từng xem nó là nơi lưu trữ tài liệu cần dùng. Họ không còn phụ thuộc vào chiếc máy tính để bàn nữa mà đưa hết mọi thứ lên Gmail, lúc nào cần cứ dùng bất kỳ thiết bị nào để lấy xuống. Ngày càng có nhiều người sử dụng các dịch vụ khác của Google như soạn thảo văn bản bằng phần mềm trực tuyến hay hoạch định lịch làm việc cũng qua mạng.

Từ “điện toán đám mây” chỉ mới xuất hiện vào năm ngoái nhưng đã lan nhanh khắp cộng đồng công nghệ thông tin. Đây là xu hướng kết hợp ba yếu tố: các trung tâm dữ liệu với hàng ngàn hay hàng chục ngàn máy chủ đóng vai trò nhà máy cung cấp các dịch vụ điện toán trên quy mô lớn; phần mềm ngày càng được cung ứng như một dịch vụ qua mạng; và các mạng không dây kết nối ngày càng nhiều loại thiết bị làm nơi tiếp nhận các dịch vụ ấy.

Trung tâm dữ liệu

Có lẽ Amazon là nơi thương mại hóa các trung tâm dữ liệu đầu tiên mặc dù kỹ thuật này đã được sử dụng từ lâu. Năm 2006, Amazon chào mời dịch vụ mang tên Amazon Web Services (AWS). Bất kỳ ai có thẻ tín dụng cũng có thể vào đây thuê một máy ảo trên hệ thống máy tính khổng lồ của Amazon để chạy ứng dụng. Các nhà điều hành AWS có thể nhanh chóng bổ sung máy chủ khi nhu cầu tăng hay tắt bớt khi nhu cầu giảm. Dịch vụ này có giá rất rẻ, chẳng hạn tiền thuê một máy ảo như thế chỉ từ 10 xu một giờ.

Amazon không phải là công ty trực tuyến duy nhất xây dựng các trung tâm dữ liệu quy mô lớn. Người ta đồn đoán rằng Google đang điều hành một mạng lưới toàn cầu mấy chục trung tâm dữ liệu với hơn 2 triệu máy chủ. Microsoft đang đầu tư tiền tỷ để bổ sung chừng 35.000 máy chủ mỗi tháng. Yahoo cũng đang bận rộn xây dựng các nhà máy điện toán kiểu như thế.
Hãy xem tờ Economist miêu tả cách người ta xây dựng một trung tâm dữ liệu như thế nào: Trong một container chở hàng loại 40 feet, người ta lắp đặt 2.500 máy chủ. Một xe tải đưa container này vào một tòa nhà bê-tông cốt thép; thợ máy nhanh chóng nối nó vào hệ thống điện, hệ thống mạng và hệ thống nước làm mát. Các phần mềm cần thiết được cài đặt tự động và trong vòng 4 ngày mọi máy chủ trong container đã sẵn sàng để xử lý thông tin của khách hàng theo đúng yêu cầu.

Đấy là bên trong trung tâm dữ liệu mới của Microsoft ở Northlake, ngoại ô Chicago, được xây dựng trên khu đất 46.000 mét vuông, chi phí lên đến 500 triệu đô-la. Khi hoàn thành, trung tâm sẽ chứa đến 400.000 máy chủ và toàn bộ tầng trệt sẽ chứa chừng 200 container như trên. Dùng container giúp việc vận chuyển máy chủ rẻ đi, lúc nào cần thì kết nối vào hệ thống chung, lúc nào không có thể di chuyển đến nơi khác ngay.

Người ta chọn địa điểm xây dựng các trung tâm dữ liệu dựa vào nhiều yếu tố. Chẳng hạn ở một vùng nông thôn giữa tiểu bang Washington lại có 6 trung tâm đang được xây dựng gần sông Columbia, ấy là vì gần đấy có một đập thủy điện cung cấp điện giá rẻ. Những yếu tố khác như kết nối Internet, lực lượng nhân sự, ngay cả chất lượng không khí được cân nhắc để quyết định xem nên chọn nơi nào. Riêng Google dường như đang muốn đưa ra nước ngoài, thậm chí ra biển. Tháng 8-2008, Google nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho một loại trung tâm dữ liệu trên nước. Sáng chế này cho rằng trung tâm điện toán đặt trên tàu, neo ngoài khơi có thể tận dụng năng lượng chuyển động của nước làm điện năng và dùng nước để làm mát.

Như vậy, xu hướng sắp tới là các doanh nghiệp có trung tâm dữ liệu riêng lẻ sẽ củng cố chúng theo hướng cắt giảm (vì các trung tâm loại này có hiệu năng rất thấp – chỉ chừng 6% năng lực xử lý) tập trung vào một ít trung tâm thật sự có hiệu quả. Còn các doanh nghiệp kinh doanh trung tâm dữ liệu sẽ phát triển mạnh, rồi cho doanh nghiệp bên ngoài thuê. Trước mắt các doanh nghiệp vừa và nhỏ là khách hàng chính vì doanh nghiệp lớn chưa chắc đã an tâm giao phó dữ liệu của mình cho người khác quản lý. Cũng có thể họ sẽ chuyển giao dần dần các loại dữ liệu không quan trọng, ví dụ NASDAQ thuê AWS để cung cấp dịch vụ tìm thông tin giao dịch cũ, gọi là Market Replay.

Phần mềm đám mây

Xu hướng phần mềm trở thành một dạng dịch vụ được cung cấp qua mạng Internet ngày càng rõ nét. Quan trọng hơn, các ứng dụng, dù có qua mạng hay không, sẽ không còn là một gói phần mềm ngày càng cồng kềnh – chúng sẽ bao gồm nhiều bộ phận cấu thành để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.

Để dễ hình dung, tờ Economist dùng hình ảnh tiệm ăn để so sánh với cách xây dựng ứng dụng theo kiểu này, tên trong ngành gọi là “kiến trúc hướng dịch vụ -SOA”. Nếu phần mềm theo kiểu cũ là một bữa ăn đóng gói sẵn, chỉ cần bỏ vào lò nấu là dùng được ngay, kiến trúc mới trông giống một nhà hàng, bản thân cũng là dịch vụ nhưng bao gồm nhiều dịch vụ nhỏ khác nhau. Khi người hầu bàn nhận lệnh từ thực khách, lệnh sẽ chuyển cho nhà bếp, rồi có người nấu, dọn ra…
SOA thoạt tiên xuất hiện trong các ứng dụng mã nguồn mở nhưng sau đó các hãng lớn cũng chuyển sang hướng này vì các ứng dụng của họ ngày càng cồng kềnh, không đáp ứng nổi sự linh hoạt mà khách hàng cần. Hãng SAP của Đức là một trong những công ty đầu tiên đưa kiến trúc hướng dịch vụ vào thương mại. Thay vì cung ứng cho khách hàng những phần mềm chuyên biệt như quản lý tài chính hay quản lý khách hàng, SAP giới thiệu các cụm phần mềm có thể kết hợp tùy ý để làm ra loại phần mềm mới, ứng với nhu cầu của từng khách hàng.

IBM dù cũng rất mặn mà với SOA nhưng đi theo hướng khác. Họ dùng SOA để giúp các doanh nghiệp tích hợp hệ thống công nghệ thông tin ngày càng phức tạp bằng cách biến chúng thành tập hợp các dịch vụ để đan xen chúng vào các quy trình kinh doanh.

Ở đây, việc thương mại hóa SOA cho giới doanh nghiệp vẫn còn rất sơ khai nhưng ngược lại, ứng dụng chạy trên web cho người tiêu dùng thì phát triển mạnh. Ví dụ, tận dụng Google Map kết hợp với danh sách nhà bán, nhà cho thuê từ Craglist, người ta làm ra Housingmaps.com, chuyên đáp ứng nhu cầu tìm nhà thuê, nhà bán nhanh chóng, có cả bản đồ chi tiết. Hàng loạt dịch vụ kết hợp như thế đã ra đời, người dùng có thể tự mình kết hợp các mô-đun lại với nhau để tạo ra ứng dụng cho mình như tin tức kèm hình ảnh, âm thanh hay kết nối…. Hồi tháng 4-2008, Salesforce.com và Google tuyên bố tích hợp dịch vụ online của họ, qua đó người dùng Salesforce (hỗ trợ quản lý khách hàng) có thể chuyển dữ liệu qua các ứng dụng trên mạng của Google.

Sắp tới các ứng dụng trên máy tính để bàn không sớm lụi tàn và các doanh nghiệp vẫn còn cần ứng dụng độc lập nhưng xu hướng là sẽ có sự kết hợp giữa phần mềm kiểu cũ và ứng dụng kiểu mới.

Các nhà tiên phong sẽ tranh nhau xây dựng cho bằng được nền tảng cho ứng dụng thật phổ biến để dần dần thay cho khái niệm hệ điều hành như kiểu Microsoft Windows hiện nay.

Thiết bị kết nối

Khi Amazon giới thiệu thiết bị đọc sách Kindle vào tháng 11 năm ngoái, ít ai nghĩ nó sẽ thành công vì thay đổi thói quen đọc sách trên giấy đã từng tồn tại hàng ngàn năm không phải là chuyện dễ.

Tuy thế, đến cuối năm nay Amazon tính ra sẽ bán được 380.000 Kindle, một loại sách điện tử chứa được 200 cuốn sách. Có thể Kindle đang trở thành một iPod trong thế giới sách báo mà chưa ai hình dung hết được.

Chắc phải cần một thời gian nữa và nhiều cải tiến khác, Kindle mới thu hút thêm nhiều khách hàng nhưng thiết bị này đang bán khá chạy là do nó kết nối dễ dàng để tải sách về máy. Mỗi Kindle có một modem và khách hàng chỉ cần vài thao tác là có sách mới để đọc ngay trên máy. Tham vọng của Amazon là mọi sách từng được in sẽ có sẵn cho người dùng mua tải về trong vòng 60 giây. Nếu Kindle mở sang lãnh vực báo chí, chưa biết tương lai báo in sẽ như thế nào.

Dù Kindle có thành công hay không, rõ ràng xu hướng các thiết bị kết nối không dây sẽ ngày càng phổ biến để người dùng có thể mua nhạc, mua phim hay truy cập các dịch vụ qua mạng từ chúng.

Máy chụp ảnh chẳng hạn sẽ tự động chuyển ảnh lên mạng, chia sẻ với mọi người, đồng hồ điện thông minh tự động báo số điện tiêu thụ trong tháng, hay tủ lạnh báo hết sữa cho nhà cung cấp…

Như thế, nếu các trung tâm dữ liệu và phần mềm ứng dụng là bản thân “đám mây”, các thiết bị sẽ kéo chúng về thế giới thật nơi con người sẽ thông qua đó tương tác trở lại với các “đám mây”. Sự ra đời của các thiết bị như điện thoại di động G1 của Google hay trình duyệt Chrome là nhằm phục vụ cho mục đích kết nối đó. Xu hướng sản xuất loại máy tính xách tay bé xíu – các netbook – cũng không nằm ngoài nỗ lực này. Máy đầu cuối không cần mạnh, chỉ cần có tính di động cao và kết nối tốt. Mọi chuyện còn lại do “đám mây” xử lý.

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2008

Tuong phan

Tương phản

Nguyễn Vạn Phú

* Nếu có dịp đi qua các con đường như Trần Quốc Thảo, Lý Chính Thắng, có lẽ ai cũng chia sẻ nhận xét thành phố của chúng ta hiện đang xuống cấp nghiêm trọng. Các lô cốt không chỉ băm nát những con đường ở phần chúng chiếm chỗ, chúng còn làm không gian quanh chúng tan nát vì chịu lượng xe lớn gấp mấy lần bình thường cày xé, lề đường bị băm vụn, không khí đặc quánh bụi bẩn. Tệ hại hơn, các lô cốt này còn góp phần hủy hoại “bản tính thiện” của con người khi ai ai cũng phải chen lấn tranh đường thoát thân. Nó làm xói mòn tinh thần tôn trọng luật lệ đi đường của người dân cho dù không ai muốn thế.

Nhiệm vụ của bộ máy chính quyền một thành phố, suy cho cùng là tổ chức một cuộc sống đô thị ngày càng nền nếp, văn minh, lịch sự hơn. Thành phố đã không làm được điều này. Các công trình chỉnh trang đô thị chắc chắn muốn hướng đến lợi ích về sau; có lẽ người dân đang chịu đựng các lô cốt giăng khắp các nẻo đường thành phố vì hy vọng chúng sẽ giúp giải quyết các vấn nạn lâu năm. Thế nhưng có ai đứng ra giải thích một cách rõ ràng, dễ hiểu cho người dân, hệ thống lô cốt đó nhằm phục vụ công trình nào, cách thức đào đường ra sao, có biện pháp gì hạn chế những trở ngại cho chúng gây ra trong thời gian thi công, bao giờ thì xong, khi xong người dân có thể kỳ vọng được gì, mặt đường sẽ được tái lập như thế nào… Hoàn toàn vắng bóng một sự chủ động như thế và thông tin có chăng là từ các thắc mắc của người dân hay chất vấn của đại biểu dân cử và được các quan chức trả lời nhằm giải trừ trách nhiệm trên báo chí.

Sự tương phản ở đây là trong khi đó, thành phố vẫn tiếp tục triển khai các quy định sẽ tác động lớn đến cuộc sống của nhiều người dân nghèo như cấm xe ba bốn bánh tự chế trong nội đô. Đành rằng các biện pháp này đúng là nhằm chỉnh trang bộ mặt đô thị nhưng một khi chuyện lớn chưa làm được (chấn chỉnh việc đào đường, lập lô cốt) thì chuyện cấm đoán này sẽ khó lòng tìm được sự đồng thuận của người dân.

* * *

* Một điều ngẫu nhiên là sự tương phản kiểu như thế lại xuất hiện từ các phát biểu khá ấn tượng trong tuần trước. Tại một cuộc tọa đàm, nhiều ý kiến đòi hỏi nhà nước phải điều chỉnh chính sách tín dụng cho bất động sản theo hướng kích thích sự phát triển của thị trường này trở lại, không để nó đóng băng. Có những ý kiến cho rằng cần giảm lãi suất, thậm chí Ngân hàng Nhà nước nên giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giúp ngân hàng có thêm vốn cho vay mua bất động sản!

Chỉ mới một thời gian rất ngắn trước đây, các phân tích từ chính phủ, các chuyên gia kinh tế, trong cũng như ngoài nước, đều thấy sự phát triển quá nóng của thị trường bất động sản là một trong những nguyên nhân gây nên bất ổn kinh tế trong những tháng đầu năm. Nay tuy tình hình đã tương đối ổn định ở nhiều lãnh vực, tín dụng bất động sản vẫn còn là một ẩn số lớn, chưa lường hết tác động một khi các khoản vay đáo hạn.

Quan trọng hơn, những khoản đầu tư bất động sản lớn nhất, liên quan đến hệ thống ngân hàng nhiều hơn, lại đến từ các tập đoàn và tổng công ty nhà nước và một số cá nhân có quan hệ với các chủ thể này. Từ tháng 4-2008, Bộ Chính trị đã nhận định: “Việc vay vốn của các tổ chức tín dụng và sự tham gia vào đầu tư bất động sản của nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp lớn với nguồn vốn khá lớn chưa được kiểm soát chặt chẽ.” Vấn đề của thị trường bất động sản nước ta nằm ở một số ít chủ thể này chứ không phải lãi suất gì cả.

Nhiều người nhận xét Việt Nam còn may mắn khi thị trường bất động sản đã xì hơi và xì hơi từ từ. Thật khó hiểu khi vẫn có những người muốn bơm hơi trở lại vào chiếc bong bóng nguy hiểm này.

* * *

* Cũng tuần trước, Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền khi trả lời phỏng vấn báo chí đã nói: “[Việc phòng chống tham nhũng trong thời gian qua có ‘chùng’ xuống không] cũng liên quan đến hoạt động của báo chí, nhất là sau khi một số nhà báo bị khởi tố, xử lý thì thông tin báo chí có ‘chùng’ xuống” (SGGP). Trên báo Tuổi Trẻ, ông nói: “Việc ‘chùng’ xuống là do cách thông tin… nếu ‘chùng’ xuống thì chỉ có báo chí ‘chùng’, còn các cơ quan chống tham nhũng khác không ‘chùng’.”

Đây là một tác động đương nhiên khi một số nhà báo bị khởi tố, một số khác bị rút thẻ hành nghề hay điều chuyển công tác khác. Không nói đến việc đúng sai, các nhà báo chắc chắn sẽ phải dè dặt cân nhắc kỹ hơn khi đưa tin tham nhũng, dù từ nguồn tin có thẩm quyền. Việc chủ động điều tra chống tham nhũng từ báo chí càng khó hơn nữa.

Một mặt, việc báo chí phải phối kiểm nguồn tin kỹ lưỡng hơn trước, dù sao, cũng làm cho tính chuyên nghiệp của báo chí được nâng lên. Nhưng mặt khác, cơ quan phòng chống tham nhũng phải thấy được trách nhiệm đưa thông tin chính thức đến với công luận qua báo chí.

Sự bức xúc của công luận chỉ có thể được giải quyết bằng một sự minh bạch và kịp thời trong thông tin. Chính ông Trần Văn Truyền cũng thừa nhận có những vụ việc đã diễn ra rồi, đã giải quyết xong nhưng vì chưa công bố nên dư luận không biết. Suy cho cùng, chính người dân là nơi đánh giá quan trọng nhất việc phòng chống tham nhũng của nước ta có đang có hiệu quả hay không chứ không phải đã giải quyết “nghiêm khắc” trong nội bộ là yên tâm chống tham nhũng thành công. Và trong khía cạnh đó, báo chí có “chùng” xuống thì đó cũng là sự đình trệ trong nỗ lực chống tham nhũng, ít nhất là trong cảm nhận của người dân.

Thứ Năm, 30 tháng 10, 2008

Khong the khu tru

Không thể khu trú để tránh bão

Nguyễn Vạn Phú

Hiện nay tình hình kinh tế thế giới đang chuyển biến từng ngày, từng giờ. Không chỉ là tin tức lên xuống thất thường của các chỉ số chứng khoán mà còn là giá cả hàng hóa biến động, tỷ giá thay đổi, sức mua tăng giảm…

Hơn ai hết doanh nghiệp là nơi tiếp nhận, xử lý thông tin và liên tục tìm cách ứng phó. Giả định một nhà nhập khẩu nếu chọn nhập hàng từ Nhật Bản sẽ phải mua hàng với giá cao hơn trước nhiều vì đồng yên đang lên giá; còn nếu quay sang nhập từ Hàn Quốc, khả năng mua được hàng với giá rẻ do đồng won đang tụt dốc không phanh, chắc hẳn họ phải cân nhắc, suy tính và liên tục dọ hỏi, tìm nguồn hàng mới. Một nhà xuất khẩu khác, nhìn thấy dấu hiệu thắt lưng buộc bụng ở người tiêu dùng các nước đang bị khủng hoảng, bèn thay đổi dòng hàng, chọn loại hàng mà sức cầu ít chịu ảnh hưởng suy thoái kinh tế nhất, loại ra các dòng hàng thuộc loại xa xỉ… Ban điều hành các doanh nghiệp lớn đang cật lực tìm lời giải tối ưu để đối phó với giai đoạn khó khăn này.

Thế nhưng, những định hướng lớn như thế từ các bộ, ngành ở cấp quốc gia hầu như đang thiếu vắng. Thay vào đó là những thông tin mang tính trấn an dễ dẫn đến sự chủ quan rất nguy hiểm trong bối cảnh hiện nay. Thay vì khẳng định tỷ giá tiền đồng sẽ ổn định ở một mức nào đó, tại sao không nhìn rộng ra các nước trong khu vực để thấy hầu như đồng tiền của nước nào cũng đang sụt giá so với đô-la Mỹ. Dù xu hướng này là ngắn hạn hay dài hạn, cũng phải có những chiến lược phòng tránh rủi ro: làm sao hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể cạnh tranh nổi khi hàng của nước khác giảm giá đến 20%-30%; nên định hướng như thế nào để hạn chế nhập khẩu nhằm tiết kiệm ngoại tệ đang rất cần để ổn định kinh tế; hỗ trợ các nhà xuất khẩu như thế nào khi các kênh thanh toán quốc tế đang biến động, người mua vẫn có nhưng hàng không bán được vì ngân hàng bên mua không thể mở tín dụng thư…

Ở góc độ đầu tư, chẳng hạn, cũng có vô số thông tin mới cần xử lý và thông báo cho các địa phương hay đối tác trong nước để chủ động ứng xử. Đầu tư vào địa ốc với những dự án hàng tỷ đô-la chắc chắn sẽ không thể triển khai như đăng ký vì hiện nay cả thế giới đang thiếu vốn lưu động, nhất là những nước như Hàn Quốc. Các địa phương phải vạch ra nhiều phương án để tránh cảnh dồn sức giải tỏa dân rồi phải nhìn dự án đóng băng như những năm cuối thập niên 1990. Chúng ta thường nói phải sản xuất cái gì thế giới cần chứ không phải cái gì chúng ta đang có. Thế nhưng nhu cầu của thế giới đang thay đổi – liệu chúng ta đã biết rõ, đã nghiên cứu kỹ nhu cầu ngắn hạn và trung hạn của thế giới hay chưa. Có rất nhiều lãnh vực cần nghiên cứu như thế, từ du lịch đến nông sản, từ lương thực, thực phẩm đến quản lý dòng vốn tài chính… Ngay cả những động thái mới như Singapore vừa ký Hiệp định Thương mại Tự do với Trung Quốc cũng cần được phân tích để thấy cơ hội hay thách thức mới, trực tiếp hay gián tiếp, từ hiệp định này.

Mỉa mai thay, trong bối cảnh đó có bộ lại lao vào những chuyện không đâu vào đâu như Bộ Y tế với các quy định thiếu căn cứ khoa học về chuyện tiêu chuẩn chiều cao, cân nặng, vòng ngực… trong cấp phép lái xe. Theo dõi nhưng có biện pháp ứng phó chưa cũng là một yêu cầu cấp bách chưa được đáp ứng như quản lý giá xăng dầu, giá thuốc, xuất khẩu khoáng sản…

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2008

Khong the lam suy yeu bao chi

Không thể làm suy yếu báo chí

Một trong những mục tiêu được xác định rõ của Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là công cụ để đạt được những mục tiêu khác. Để có một xã hội công bằng, chính quyền sẽ phải thiết kế các chính sách sao cho đem lại cơ hội công bằng cho mọi người. Nhưng người lãnh đạo chính quyền không thể bao quát hết toàn bộ bộ máy của mình để bảo đảm họ đang làm đúng các chính sách đó. Vì thế, báo chí, ở bất kỳ nước nào, bên cạnh nhiều chức năng khác, cũng được xem là “công cụ” giúp Nhà nước hiểu được chuyện gì đang xảy ra trên đất nước mình, công chức của mình đang làm tốt chức trách được giao hay không, người dân có thật sự hưởng lợi từ chính sách không, chính sách có thật sự được thiết kế tốt chưa…

Chỉ nói riêng góc cạnh gián tiếp giúp chính quyền giám sát bộ máy thừa hành, báo chí là phương tiện không thể thiếu vì báo chí là tai mắt và là miệng của người dân, rất cần cho nhà lãnh đạo muốn lắng nghe những diễn biến xã hội đang sôi động và biến chuyển từng ngày. Không ai làm yếu đi một công cụ quan trọng như thế. Và chính chức năng này buộc những viên chức làm sai phải nhìn trước ngó sau, buộc các quan tham chùn tay, buộc các cường hào bớt đi sự nhũng nhiễu.

Trong năm nay, làng báo Việt Nam gặp nhiều sự cố, như vụ xét xử hai nhà báo trong tuần này. Nhưng bản thân từng vụ việc, xét trên bình diện chung, không quan trọng bằng chuyện làng báo Việt Nam liệu có bị nhụt đi, không làm được chức năng nói trên. Và dĩ nhiên, khi làng báo thụt lùi, các con sâu trong bộ máy hành chính, kể cả các con sâu ở bên ngoài dựa vào thế lực của bộ máy hành chính, sẽ lấn tới. Chuyện hành hung, nhục mạ nhà báo, chuyện đòi can thiệp đăng hay không đăng tin này, tin kia của một số địa phương, ngành hay tổng công ty là hậu quả hiển nhiên.

Đến đây, một câu hỏi không thể không đặt ra là lấy gì bảo đảm báo chí làm đúng chức năng của mình, từng nhà báo tự nguyện làm người quan sát vô tư cho xã hội hay chính họ cũng tham gia vào việc làm nhiễu quá trình giám sát của xã hội.

Thực tế cho thấy đây là mối quan tâm xác đáng, nhưng thực tế cũng cho thấy nhiều biện pháp giải quyết rất hữu hiệu để phòng ngừa sự lạm dụng như thế. Đó là hệ thống pháp luật dân sự buộc người viết báo phải chịu trách nhiệm cho những thông tin mình đưa ra. Đó là sự cạnh tranh lành mạnh giữa các báo để cuối cùng thông tin trung thực, khách quan nhất sẽ vượt thắng. Đó là sự giám sát giữa các báo với nhau bởi đạo đức nghề nghiệp, những biện pháp kiểm chứng nguồn tin...

Nhà báo cũng là công dân như bất kỳ người nào khác nhưng khi xét đoán hành vi của họ, cần tách bạch vai trò họ gánh vác khi hành nghề, là đại diện cho tai mắt miệng của người dân, là đại diện cho mong muốn giám sát bộ máy của lãnh đạo chính quyền. Nếu hành xử cách nào đó, để xã hội hiểu sai hay giới quan chức hư hỏng hiểu sai sẽ làm suy yếu làng báo, một điều nguy hại cho xã hội mà không ai muốn xảy ra. Lúc đó quá trình xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam sẽ bị thụt lùi khó lòng vực lại.

Nguyễn

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2008

Giai Nobel Kinh te 2008

Giải Nobel Kinh tế 2008: Quay về thế giới thật

Nguyễn Vạn Phú

Tin Paul Krugman, giáo sư kinh tế đại học Princeton nhưng được biết đến nhiều hơn trong vai trò là cây bút bình luận kinh tế sắc sảo của tờ New York Times, được chọn trao giải Nobel Kinh tế năm nay có lẽ vừa gây ngạc nhiên vừa là một chọn lựa hoàn toàn hợp lý. Ngạc nhiên là vì trước đó, trong hàng loạt nhân vật có khả năng đoạt giải năm nay, thấy không ai, hay đúng hơn là ít ai nhắc đến tên Krugman. Còn hợp lý chính là do bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay.

Trước hết xin nhắc lại hai trường phái kinh tế đối chọi nhau: Trường phái Keynes, xuất hiện sau cuộc đại suy thoái vào thập niên 1930, cho rằng “không thể trông đợi vào thị trường tự do để cung cấp đầy đủ việc làm, từ đó tạo ra cơ sở mới cho sự can thiệp sâu rộng hơn của chính phủ vào nền kinh tế”*. Trước đó lý thuyết kinh tế học cổ điển cứ khăng khăng “tuyên bố rằng lời giải cho hầu hết các vấn đề là cứ để mặc mọi việc dưới các tác động của cung cầu”*. Ngược lại, trường phái trọng tiền mà người cổ xúy mạnh mẽ nhất là Milton Friedman chủ trương để mặc thị trường tự lo liệu, nhà nước càng ít can thiệp càng tốt.

Trong bài viết dài giới thiệu Milton Friedman (các câu trong ngoặc ở trên là được trích từ bài này), mặc dù Paul Krugman đánh giá rất cao những đóng góp của Friedman, ông đã thẳng thắn phê phán chủ nghĩa độc tôn thị trường tự do. Ông viết: “Rất khó khăn để tìm ra những trường hợp mà Friedman thừa nhận khả năng thị trường có thể sai lầm, hay sự can thiệp của chính phủ có thể phục vụ mục đích có ích”. Ngay ở bài này Krugman, một nhà kinh tế được cho là theo trường phái Tân-Keynes đã viết: “Các nước đang phát triển đua nhau mở cửa thị trường vốn, bất chấp cảnh báo rằng điều này có thể đặt họ vào tình trạng khủng hoảng tài chính; rồi khi khủng hoảng nổ ra, nhiều nhà quan sát đổ lỗi cho chính phủ của các nước này, chứ không phải cho sự thiếu ổn định của dòng vốn quốc tế.”

Câu kết của bài viết nói trên nhận định: “Khi Friedman bắt đầu sự nghiệp của mình như một trí thức công, thời gian đã chín muốn cho một cuộc cải cách ngược chống lại chủ nghĩa Keynes và tất cả những gì đi cùng nó. Nhưng, tôi cho rằng điều thế giới đang cần là một cuộc cải cách chống lại cuộc cải cách ngược ấy.” Có lẽ Krugman không ngờ điều ông viết đã diễn ra nhanh hơn – rằng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đang trông chờ một lý thuyết kinh tế mới và có lẽ những người như Krugman đã và đang khởi xướng cho một công cuộc tìm kiếm như thế.

Trở lại với giải Nobel Kinh tế năm nay (trị giá 1,4 triệu đô-la), chính thức mà nói Paul Krugman được giải là do các công trình nghiên cứu về thương mại quốc tế và địa kinh tế. Trước ông, người ta thường lý giải vì sao nước này nhập khẩu hàng này và nhập khẩu hàng khác theo các lý thuyết đã định hình từ lâu như lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo nhưng thực tế cho thấy chúng bất lực trong nhiều trường hợp. Năm 1979, Paul Krugman đề xuất một mô hình mới giải thích tốt hơn các xu hướng thương mại và các công trình sau đó của ông ứng dụng mô hình này để giải thích các vấn đề liên quan đến địa kinh tế - hay nói đơn giản nhất – là để trả lời câu hỏi hàng hóa gì được sản xuất ở đâu.

Ví dụ dùng lý thuyết lợi thế so sánh, người ta không thể giải thích vì sao Thụy Điển vừa xuất khẩu xe hơi vừa nhập khẩu xe hơi. Với một bài dài chỉ 10 trang, Krugman khái quát hóa mô hình thương mại nội ngành với giả định quy mô sản xuất lớn sẽ làm giảm giá thành đơn vị hàng hóa được sản xuất. Ngày nay chúng ta không thấy lạ gì chuyện Việt Nam xuất khẩu máy in (của Cannon) và nhập khẩu máy in (của các hãng khác, như HP chẳng hạn) nhưng vào lúc đó, từ những manh nha ban đầu để xây dựng một lý thuyết chặt chẽ là một thành tựu đáng kể. Lý thuyết của Krugman còn dựa vào giả định rằng người tiêu dùng thích sự đa dạng, cho nên người Việt Nam cũng có thể nhập gạo Thái Lan hay cũng chuyện kem đánh răng mà có đến hàng chục nhãn hiệu là chuyện bình thường. Như vậy thương mại giữa hai nước không chỉ nhắm đến các sản phẩm khác nhau mà còn bao gồm các sản phẩm giống nhau về chức năng nữa. Sau này Krugman phát triển lý thuyết của ông thêm một bước nữa để bao quát mối quan hệ giữa quy mô kinh tế và chi phí vận tải tác động như thế nào đến quá trình tập trung hay phân tán các cộng đồng dân cư. Ông đã xuất bản 20 cuốn sách, hơn 200 công trình nghiên cứu. Năm 1991 ông được Hội Kinh tế Hoa Kỳ tặng huy chương John Bates Clark cho nhà kinh tế dưới 40 tuổi có đóng góp lớn cho kiến thức kinh tế.

Nhưng nói gì thì nói, nhắc đến Paul Krugman, nhiều người sẽ nhớ đến các bài bình luận ngắn gọn, dễ hiểu và sắc bén mà ông viết cho tờ New York Times từ năm 1999. Trong những bài gần đây, ông phê phán gay gắt chính sách kinh tế của chính quyền Mỹ hiện thời cũng như những nỗ lực giải cứu thị trường đầy lúng túng ban đầu. Những bài viết này hoàn toàn không dùng các khái niệm kinh tế đao to búa lớn mà lại rất thời sự, đi sát bình luận, nhận định những diễn biến ngay trước đó nên rất hữu ích cho những ai muốn có cái nhìn tỉnh táo về tình hình kinh tế hiện nay. Có lẽ chúng ta sẽ còn nghe nhắc nhiều đến tên tuổi của Paul Krugman trong thời gian tới.

Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2008

Thuc va Ao

Thực và ảo

Nguyễn Vạn Phú

Thử hình dung hai thế giới, một bên là những công nhân kiên trì cho ra đời các sản phẩm như xe hơi, máy điện thoại di động, là thợ xây dựng nhẫn nại xây nhà, các cô đổ mồ hôi may quần áo – toàn là những sản phẩm cụ thể, có thể sờ mó được. Thế giới bên kia gồm những nhà buôn bán cũng đủ loại sản phẩm nhưng không có mặt mũi, được đặt những cái tên rất kêu nhưng rất xa lạ - những sản phẩm “phái sinh”! Xây nhà thì phải có tiền mới xây được, nên mới có chuyện vay tiền. Từ cái hợp đồng vay ấy, người ta cho sinh ra đủ loại giấy tờ, gán cho chúng một giá trị dựa trên cái nhà trong thế giới thật, chỉ có điều trong thế giới ảo, trị giá của các loại giấy tờ được bơm phồng nhiều lần, được mua qua bán lại như chong chóng, thậm chí được bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm ấy lại được mua bán tiếp. Nay cái thế giới ảo ấy đang gặp vấn đề - đầu tiên là ở Mỹ và có khả năng lan rộng ra các nước khác.

Nhiều người lập luận, sao không thể tách bạch hai thế giới ấy ra, sản phẩm vật chất đủ để nuôi sống nhân loại; còn chuyện tài chính, chứng khoán phức tạp, cứ để cho chúng tự xoay xở với nhau. Sự đời không đơn giản vì chính cái thế giới ảo đang cung ứng tiền cho thế giới thật hoạt động, nó vừa là chủ nợ vừa là khách hàng kích thích sản xuất kinh doanh. Một anh chàng làm ở một tập đoàn tài chính, giỏi “đánh bạc”, biết liều lĩnh nên thắng đậm trong một thương vụ mua bán chứng khoán cho công ty và được thưởng một khoản tiền hậu hĩnh. Anh này có tiền mới mua được xe, mua nhà, đổi điện thoại di động và sắm quần áo. Sản phẩm vật chất tăng lên, giá trị các chứng khoán dựa trên nó cũng được mua bán sôi động, tiền lại đổ vào các dự án mở rộng sản xuất… cứ thế hai thế giới đan chéo vào nhau, không dễ dàng gì tách bạch chúng ra.

Vì thế, cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ hiện nay chắc chắn sẽ là tiền đề cho một cuộc cải tổ tận gốc rễ vai trò của hệ thống tài chính trong nền kinh tế, không thể để cho các nhà tài phiệt tiếp tục “đánh bạc” trên hoạt động của nền sản xuất kinh doanh một cách vô căn cứ như thời gian qua. Những điều chúng ta đọc được trên báo chí mấy tuần qua là sự rạn nứt (có nơi, có lúc là sự sụp đổ) của hệ thống ấy và những dấu hiệu ban đầu về một trật tự mới. Không còn loại ngân hàng đầu tư thuần túy, tức là chỉ hoạt động bên thế giới ảo; tạm thời không còn bán khống chứng khoán (ảo đến hai lần). Giữa năm nay chúng ta từng chứng kiến giá gạo thế giới tăng vọt chưa từng thấy, ấy là vì bên thế giới ảo thò tay qua định “đánh cược” nhau dựa trên giá gạo của thế giới thật. Bị phản đối kịch liệt, giới đầu cơ bên thế giới kia rụt tay lui và giá gạo trở về bình thường. Giá vàng, giá dầu hiện nay cũng vậy thôi.

Chưa thể nào hình dung quan hệ tài chính mới sẽ như thế nào nhưng có thể thấy nhiệm vụ điều hành nền kinh tế nước ta trong thời gian tới sẽ rất nặng nề. Không những chỉ phải hạn chế những tác động xấu của cuộc khủng hoảng trong bối cảnh kinh tế Việt Nam cũng đang gặp nhiều khó khăn, Việt Nam còn phải lường trước mô hình quản lý hoạt động tài chính để có những ứng xử cho thích hợp.

Dễ thấy nhất là nên khuyến khích hết cỡ cho những hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính “thật” như một dự án sản xuất linh kiện cho một sản phẩm được phân phối toàn cầu và hạn chế triệt để các loại hình “dịch vụ” của thế giới ảo đang trải qua những biến động chưa ai lường hết hậu quả. Nhưng cũng như đã nói ở trên, hai thế giới này đang quyện chặt vào nhau nên thật khó tách bạch – một dự án địa ốc khổng lồ vừa được cấp phép biết đâu là sản phẩm nền cho những canh bạc của thế giới ảo tận đâu đâu. Biết đâu, canh bạc đã tàn nên giờ đây dự án sẽ chết theo, mãi mãi không triển khai được. Với lại, cái hấp lực của thế giới ảo nó lớn lắm, gặp hên, tiền đẻ ra tiền như trong truyện cổ tích; tiền bôi trơn cũng nhiều hơn và các con số cũng ấn tượng hơn. Cái thế giới thật còn bị nhiều vấn nạn như ô nhiễm môi trường, như đình công, như tắc nghẽn hạ tầng…

Dù sao các đợt sóng xô đẩy con tàu kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm là một loại tập dượt đem lại những trải nghiệm quý báu để chúng ta tìm con đường đúng đắn nhất trong thế giới nhiều biến động hiện nay.

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2008

Khung hoang tai chinh

Lòng tham là thủ phạm

Nguyễn Vạn Phú

Câu hỏi đầu tiên của nhiều người khi những chứng kiến biến động sâu sắc trên thị trường tài chính nước Mỹ trong suốt tuần qua là vì sao mọi việc diễn ra nhanh chóng đến thế.

Chực chờ ngoài ngõ

Khủng hoảng tài chính ở Mỹ, xuất phát từ chuyện cho vay dưới chuẩn trên thị trường địa ốc diễn ra ngấm ngầm từ năm ngoái. Thế nhưng thủ phạm chính cho hàng loạt cuộc sụp đổ các đại công ty tài chính và ngân hàng đầu tư trong hai tuần qua là giới đầu cơ với công cụ mua bán khống. Một khi giới này tin chắc cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn. Thời gian qua, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale), tức là thậm chí không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu. Bộ trưởng Tư pháp bang New York, Andrew Cuomo than: “Họ giống như kẻ hôi của sau một cơn bão”. Ngay cả ứng cử viên tổng thống John McCain cũng cho rằng Ủy ban Chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) đã duy trì các quy định cho phép những kẻ đầu cơ biến thị trường chứng khoán thành canh bạc lớn và tuyên bố: “Nếu tôi là tổng thống, tôi đã sa thải ngay [Christopher Cox, chủ tịch SEC]”.

Trước nay quan niệm của giới quản lý thị trường chứng khoán cho rằng bán khống là một phần tất yếu của hoạt động giao dịch, nhờ nó mà giá chứng khoán không bị đẩy lên cao một cách giả tạo. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhiều tập đoàn rõ ràng phải chờ đến bàn tay cứu vớt của chính phủ Mỹ, xu hướng giảm giá cổ phiếu của họ là quá rõ, giới đầu cơ không thể nào bỏ qua cơ hội “đánh hôi” kiếm lời. Ví dụ, cổ phiếu của Morgan Stanley trong ngày thứ Tư (17-9) giảm đến 24% và tổng giám đốc John Mack cáo buộc giới bán khống chịu trách nhiệm phần lớn cho sự sụt giá nhanh chóng này bởi mới ngày hôm trước Morgan Stanley công bố tình hình tài chính với kết quả kinh doanh tốt hơn dự báo.

Đến gần cuối tuần trước, SEC phải theo chân Anh và một số nước khác, tạm thời cấm bán khống đối với 799 loại chứng khoán. Các quỹ hưu trí, nơi thường giữ cổ phiếu lâu dài và là nơi cho vay để giới đầu cơ bán khống tuyên bố sẽ hạn chế cho vay theo kiểu cũ. Lệnh cấm này mở đường cho những cải cách sâu rộng mà giới quản lý thị trường tài chính các nước sẽ phải tiến hành trong thời gian tới nếu không muốn tình trạng khủng hoảng tái diễn.

Thủ phạm trong nhà

Thế nhưng để cho giới đầu cơ có cơ hội ngàn vàng như thế, lỗi chính là ở các tập đoàn tài chính quá tham lam và vô trách nhiệm. Đây là kết luận của hầu hết các nhà phân tích khi nhìn lại nguyên nhân của cuộc khủng hoảng hiện nay. TBKTSG đã có khá nhiều bài viết về chuyện “chứng khoán hóa” các khoản vay dưới chuẩn để mua đi bán lại kiếm lời. Cho đến tuần trước các con số cụ thể lần lượt được tiết lộ. Ví dụ, từ năm 2004 đến 2007, bảng cân đối kế toán của Lehman Brothers tăng thêm 300 tỷ đô-la nhờ mua chứng khoán có nguồn gốc là các khoản vay địa ốc trong khi nguồn vốn chủ sở hữu chỉ tăng 6 tỷ đô-la. Cái gọi là đòn bẩy tài chính được tận dụng khi chứng khoán mua vào được sử dụng làm vật thế chấp để vay mua chứng khoán khác, cứ thế một đồng đô-la tài sản thật sẽ được biến hóa thành hàng trăm đồng đô-la tài sản ảo chỉ hiện diện trên sổ sách. Chừng nào lãi suất còn ở mức thấp thì Lehman Brothers vẫn còn báo lãi nhưng một khi lãi tiền vay cao hơn chênh lệch mua bán thì họ bắt đầu chuỗi ngày dài lỗ nặng. Trong trường hợp của Lehman, giá trị tài sản gấp 31 lần vốn chủ sở hữu cho nên nếu giá trị tài sản chỉ cần giảm 3% thì toàn bộ vốn chủ sở hữu sẽ mất tiêu!

Các tập đoàn tài chính này có biết rủi ro rất dễ thấy này không? Đương nhiên là biết nhưng chính vì những khoản tiền thưởng hậu hĩ cho những ai mua bán, giao dịch nhiều càng làm các giới quản lý bất chấp trách nhiệm, liều lĩnh lao vào vòng xoáy mua bán chứng khoán. Dù sao, họ vững tin, nếu có chuyện gì, chính phủ sẽ phải cứu để toàn bộ thị trường khỏi sụp đổ và quan trọng hơn hết, nếu phá sản, chỉ có giới đầu tư chịu còn họ đã yên tâm với khoản lương thưởng hàng trăm triệu đô-la hàng năm. Nhà kinh tế đoạt giải Nobel Joseph Stiglitz cho rằng nếu lột bỏ hết mọi từ ngữ rất kêu về các công cụ tài chính mới, cuộc khủng hoảng hiện nay cũng chỉ là một dạng lạm dụng quá đáng “đòn bẩy tài chính” và âm mưu lừa đảo theo kiểu dùng tiền của người sau trả cho người trước. Ông cũng nhận định FED đã thất bại ở cả hai mặt: áp dụng lãi suất thấp trong thời gian dài để mọi người thỏa sức vay mượn và quản lý lỏng lẻo dẫn tới bong bóng địa ốc, là nguồn cơn của khủng hoảng hiện nay.

Đi tìm mô hình tài chính mới?

Cuộc khủng hoảng tài chính vẫn đang diễn ra nên chưa ai bàn gì sâu về một mô hình tài chính tương lai nhưng tất cả mọi nhận định đều cho rằng sẽ có những thay đổi tận gốc rễ. Đầu tiên, giới đầu tư châu Á sẽ phải cân nhắc lại chiến lược đổ tiền vào thị trường Mỹ mua chứng khoán tính bằng tiền đô-la. Đã nhiều năm nay, tiền để dành của dân châu Á đổ vào Mỹ ở nhiều dạng, từ trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp để cổ phiếu đủ loại. Khoản tiền này là dầu bôi trơn vận hành bộ máy tài chính tinh vi và phức tạp của Mỹ. Nay với sự tàn phá nặng nề của cơn bão tài chính hai tuần qua, chắc chắn trong tương lai gần, giới đầu tư châu Á và các châu khác sẽ phải tính toán lại chiến lược. Đây là điểm gây lo lắng cho nhiều nhà phân tích vì, một khi xu hướng này diễn ra, khủng hoảng tài chính ở Mỹ sẽ kéo dài, khó tìm lối thoát dài hạn. Thật ra xu hướng này đã bắt đầu – số liệu của Bộ Tài chính Mỹ công bố đầu tuần trước cho thấy, tính chênh lệch ròng thì nhà đầu tư rút 92,9 tỷ đô-la khỏi thị trường Mỹ vào tháng 7-2008 dù tháng trước đó, chênh lệch vẫn nghiêng theo hướng đổ vào, vẫn còn dương lên đến 46,8 tỷ đô-la. Ngân hàng trung ương các nước châu Á vẫn còn mua trái phiếu chính phủ Mỹ nhưng với mức ngày càng thấp dần – chỉ còn 18,2 tỷ đô-la vào tháng 7 trong khi mức bình quân sáu tháng đầu năm nay là 22,3 tỷ mỗi tháng.

Cái quan trọng là tính minh bạch, được các tập đoàn tài chính toàn cầu nhấn mạnh như một trong những điểm then chốt để thu hút đầu tư, lại không được chính họ coi trọng trong thời gian qua. Không ai biết đích xác tài sản nằm trong bản cân đối kế toán của một tập đoàn có nguồn gốc từ đâu vì chúng đã được sang tay, mua bán qua lại rất nhiều lần. Vì thế, sau cơn bão, dọn dẹp đống đổ nát đòi hỏi những tập đoàn còn trụ lại phải minh bạch hóa mọi khoản đầu tư mới mong chiếm lại phần nào lòng tin của giới đầu tư. Lấy ví dụ, trong thời kỳ bùng nổ thế chấp bất động sản, Merrill Lynch nhận hàng tỷ đô-la nghĩa vụ nợ với hồ sơ rất mơ hồ. Để giảm thiểu rủi ro, Merrill Lynch mua bảo hiểm ở AIG dưới dạng “trao đổi vỡ nợ tín dụng”, chỉ tính riêng ở hãng bảo hiểm này đã lên tới 5 tỷ đô-la. Tổng cộng AIG bảo hiểm đến 441 tỷ đô-la loại này, trong đó 58 tỷ liên quan đến tín dụng dưới chuẩn địa ốc. Chưa biết AIG bán lại loại bảo hiểm này cho ai nhưng chắc chắn nhiều ngân hàng châu Âu có dính vào.

Điều chắc chắn nữa là chính phủ nhiệm kỳ tới của Mỹ sẽ đảo ngược quá trình “nới lỏng quản lý” (deregulation) đối với hoạt động trên thị trường tài chính – chứng khoán và sẽ áp dụng nhiều quy định mới. Cấm bán khống là một minh họa diễn ra sớm nhất và những biện pháp can thiệp của chính phủ Mỹ chính là quá trình siết chặt quản lý chứ không để thị trường “tự quyết định” như trước. Ứng cử viên tổng thống Barack Obama, người từng chủ trương đẩy mạnh quản lý, càng có dịp thúc đẩy nhanh quá trình này còn John McCain, trước còn cổ súy cho việc nới lỏng quản lý để thúc đẩy tăng trưởng, nay phải quay ngoắc 180 độ để hứa hẹn: “Dưới những cải cách của tôi, người dân Mỹ sẽ được bảo vệ bởi các quy định quản lý toàn diện”.

Trước đây, cựu chủ tịch FED, Alan Greenspan chủ trương các định chế tài chính sẽ quản lý lẫn nhau, có nghĩa các tập đoàn tài chính, vì lợi ích của chính họ, sẽ canh chừng đối thủ để thổi còi nếu làm sai. Thế nhưng một khi tất cả đều làm sai thì ai đứng ra canh chừng họ?

Những cộc mốc chính
2004-2006: Lãi suất ở Mỹ tăng từ 1% lên 5,35%, thị trường địa ốc Mỹ bắt đầu xuống giá. Các khoản vay địa ốc dưới chuẩn không trả được tăng vọt đến mức báo động.
2007: Các ngân hàng lớn lần lượt báo cáo lỗ do dính vào các khoản vay loại này.
17-3-2008: Bear Stearns ngân hàng lớn thứ năm ở Wall Street, mới năm ngoái có giá khoảng 18 tỷ đô-la phải bán mình cho JP Morgan Chase với giá 2 đô-la/cổ phiếu so với giá 172 đô-la/cổ phiếu đầu năm 2007. Fed (New York) đứng đằng sau cho vay 29 tỷ đô-la để bảo lãnh các khoản nợ khó đòi.
11-7-2008: Ngân hàng IndyMac bị đặt dưới quyền kiểm soát của Fed và sau đó tuyên bố phá sản.
6-9-2008: Fed nắm quyền kiểm soát Fannie Mae và Freddie Mac, hai tập đoàn bảo lãnh tín dụng địa ốc lớn nhất Mỹ.
14-9-2008: Ngân hàng đầu tư Lehman Brothers tuyên bố phá sản.
15-9-2008: Merrill Lynch, lo sợ số phận tương tự Lehman Brothers, phải bán mình cho Bank of America với giá 50 tỷ đô-la.
16-9-2008: Fed đồng ý cho AIG vay 85 tỷ đô-la đổi lại quyền nắm giữ 80% cổ phiếu của hãng bảo hiểm này.
18-9-2008: Fed và ngân hàng trung ương các nước khác bơm 180 tỷ đô-la để tháo băng tín dụng ngân hàng.
19-9-2008: Chính phủ Mỹ tuyên bố một kế hoạch tổng thể để cứu hệ thống tài chính, gồm một chương trình mua lại các khoản vay thế chấp xấu với chi phí ước tính lên đến 700 tỷ đô-la.

Cập nhật
Canh bạc sau cùng

Kế hoạch giải cứu thị trường tài chính của chính phủ Mỹ là một canh bạc khổng lồ với những khoản đặt cược to lớn – là sự sống còn của không chỉ nhiều tập đoàn tài chính mà còn của cả nền kinh tế Mỹ và, cách nào đó, là nền kinh tế toàn cầu.

Chấm dứt những ngày chọn lựa, cân nhắc cứu tập đoàn này bằng những khoản tiền khổng lồ, bỏ mặt tập đoàn khác cho phá sản, cuối tuần trước chính phủ Mỹ đã vạch ra một kế hoạch toàn diện hơn nhằm ngăn chận cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng. Bản kế hoạch chỉ vỏn vẹn ba trang giấy nhưng có trị giá đến 700 tỷ USD yêu cầu trao cho Bộ Tài chính Mỹ, phối hợp với Cục Dự trữ Liên bang toàn quyền xử lý mua lại những món tài sản xấu của các ngân hàng và tập đoàn tài chính nhằm làm lành mạnh hóa sổ sách của chúng và từ đó hy vọng đem lại niềm tin vào thị trường tài chính.

Ngay lập tức, hàng loạt câu hỏi được đặt ra – những câu hỏi rất hữu ích cho các cuộc “giải cứu chứng khoán” tương tự. Đối tượng được giải cứu đã được xác định đúng chưa vì bản chất của cuộc khủng hoảng hiện nay là những món vay dưới chuẩn mua nhà trả góp, nếu không giúp người mua nhà trả được nợ thì chưa giải quyết được gốc rễ của vấn đề. Nhiều nhà phân tích cho rằng giải cứu như thế chỉ có lợi cho những nhà tài phiệt – thủ phạm chính gây ra khủng hoảng – nên sẽ làm cho họ lờn mặt, sẽ cứ tiếp tục kinh doanh liều lĩnh như trước vì yên trí sẽ có chính phủ ra tay cứu giúp.

Câu hỏi quan trọng tiếp theo là mua với giá nào? Bộ Tài chính Mỹ cho biết sẽ mua với “giá thị trường” nhưng với những biến động giá chứng khoán trong hai tuần qua, không ai biết giá thị trường là giá nào nữa. Chỉ cần nghe đến kế hoạch giải cứu, giá chứng khoán của các ngân hàng và tập đoàn tài chính, sau khi tụt giảm thê thảm, đã tăng vọt trở lại, có lẽ vì yếu tố chờ “giá thị trường” này. Nếu mua với giá quá cao thì sẽ là gánh nặng cho người dân đóng thuế của Mỹ nhưng mua giá quá thấp thì kế hoạch sẽ không có tác dụng ngăn chận khủng hoảng lan rộng.

Với các nhà kinh tế, câu hỏi họ thắc mắc là mua tài sản loại gì. Kế hoạch dùng từ chung chung là “tài sản liên quan đến vay thế chấp” nhưng từ một khoản vay thế chấp mua nhà bình thường, người ta đã biến báo ra đủ loại sản phẩm “phái sinh” sau khi “chứng khoán hóa” chúng. Chẳng hạn, AIG gần sụp đổ là vì họ bán bảo hiểm cho các ngân hàng đầu tư phòng ngừa trường hợp vỡ nợ. Nay các loại hợp đồng bảo hiểm này, bản thân chúng cũng được mua qua bán lại như một tài sản, có được đưa vào diện “giải cứu” chăng? Các tài sản của các quỹ đầu cơ chắc chắn không được chính phủ Mỹ mua rồi nhưng giả thử họ bán các loại tài sản này cho các ngân hàng đầu tư thì sao?

Mặc dù bản kế hoạch không nói nhưng trong những giải thích sau đó, Bộ trưởng Tài chính Henry Paulson cho biết sẽ mua tài sản của cả các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động ở Mỹ có liên quan đến nợ xấu địa ốc. Thế thì các ngân hàng hay tập đoàn tài chính ở nước ngoài thì sao? Trước đó đã có hàng loạt ngân hàng sụp đổ vì dính líu đến các khoản vay này.

Chính vì những câu hỏi này mà ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ Obama đã phê phán kế hoạch của chính phủ Mỹ chỉ là “một khái niệm với bảng giá quá cao, chứ không phải là một kế hoạch”. Theo ông, kế hoạch cuối cùng phải bao gồm những ràng buộc bắt các tập đoàn được nó hỗ trợ chia sẻ một phần chi phí, giúp người mua nhà trả góp khỏi bị tịch biên tài sản và phải phối hợp với chính phủ các nước khác. Thông thường một khi chính phủ can thiệp, con đường phải đi là chiếm quyền kiểm soát tập đoàn nào gần phá sản, tuyên bố bảo đảm trả hết nợ, cơ cấu lại tài sản rồi bán nó cho thị trường. Nợ xấu thường được chuyển cho một công ty xử lý nợ quốc gia khoanh lại. Vì thế, người ta nhận xét, kế hoạch của chính phủ Mỹ có mục đích tạo dựng lại niềm tin thị trường hơn là giải quyết gốc rễ vấn đề.

Nhìn xa hơn, kế hoạch giải cứu sẽ tạo ra những tác động khó lường hết được. Ví dụ, chắc chắn thâm hụt ngân sách của Mỹ sẽ gia tăng mạnh do chi phí thực hiện kế hoạch, vậy, lạm phát sẽ như thế nào, thị trường trái phiếu chính phủ Mỹ sẽ ra sao, tương lai đồng đô-la mạnh yếu như thế nào – chưa ai rõ.

Tuy nhiên, hầu như mọi nhà phân tích, dù đặt ra hàng loạt nghi vấn như thế, vẫn cho rằng chính phủ Mỹ không còn lựa chọn nào khác. Nếu không mạnh tay “giải cứu” thị trường, hàng loạt vụ sụp đổ khác sẽ khiến nền kinh tế lao vào vòng xoáy phá sản. Tuần trước, các ngân hàng không còn thiết tha gì việc cho vay, họ bám chặt vào các loại tài sản tương đương tiền mặt để phòng thân, làm nền kinh tế đi vào chỗ tắt nghẽn. Con số 700 tỷ USD không phải là mất hẳn – sau khi mua lại, kinh tế ổn định, chính phủ Mỹ sẽ lại bán ra, biết đâu thậm chí còn lãi một khoản đáng kể nữa. Có lẽ phát biểu của Tổng thống Bush tóm gọn được tình hình: “Nguy cơ không làm gì cả cao hơn nhiều rủi ro của kế hoạch này”.

Bài đăng phổ biến