Thứ Năm, 18 tháng 3, 2010

Ôm đồm

Ôm đồm

Tuần rồi, khi ghé vào trang web của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT), tôi ngạc nhiên trước khối lượng công việc đồ sộ mà bộ tự đặt ra cho mình, chỉ tính riêng các văn bản mới ban hành trong tuần. Nào yêu cầu các sở GD-ĐT, các trường “Rà soát, chấn chỉnh tình trạng vi phạm luật giao thông của học sinh-sinh viên, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm”; nào là yêu cầu các trường đại học, cao đẳng trên toàn quốc “Báo cáo chương trình đào tạo liên kết với các cơ sở giáo dục nước ngoài”; nào là đưa ra dự thảo quy định “Chủ biên hoặc đồng chủ biên giáo trình phải có chức danh giáo sư, phó giáo sư hoặc có trình độ tiến sĩ”…

Gọi là một khối lượng công việc đồ sộ vì các yêu cầu này sẽ dẫn tới phải kiểm tra, giám sát xem các sở, các trường có thực hiện đúng hay không, nếu không thực hiện thì phải đưa ra biện pháp chế tài như thế nào, rồi khi nhận các loại báo cáo, phải có bộ phận xử lý, tổng hợp thông tin, rồi sẽ họp hành, giải quyết những vấn đề phát sinh từ thực tế muôn hình vạn trạng. Không một bộ máy hành chính nào có thể kham nổi khối lượng công việc như thế và thực tế các trường đã từng lên tiếng phàn nàn Bộ GD-ĐT đặt ra nhiều quy định, đưa ra nhiều lời kêu gọi nhưng phần lớn chỉ dừng ở hình thức chứ không hề có biện pháp chế tài nào cả.

Chẳng hạn chính Bộ thừa nhận có đến 66% các trường đại học, cao đẳng không thực hiện đầy đủ việc công khai các thông tin về điều kiện đảm bảo chất lượng, chất lượng đạt được và tài chính, trong đó có đến 175 trường không chịu công bố công khai về học phí.

Mấu chốt vấn đề là những nhà quản lý giáo dục đang làm theo cách cũ, muốn ôm đồm hết tất cả mọi việc, cứ lo nếu không quản lý thì ngành giáo dục sẽ “loạn” hết. Thực tế giáo dục nảy sinh vấn đề gì, các nhà quản lý bèn nghĩ ra biện pháp đối phó vấn đề đó, rồi ra văn bản chỉ đạo, yêu cầu với suy nghĩ nếu mọi người răm rắp làm theo, mọi chuyện sẽ được giải quyết ổn thỏa. Trong khi đó, nghệ thuật quản lý bình thường đi theo hướng ngược lại: sử dụng những mối quan hệ xã hội để tạo ra các lợi ích cân bằng tự giám sát lẫn nhau theo đúng định hướng nhà quản lý muốn hướng tới.

Ngoài việc trao quyền chủ động cho các trường học đã được nhiều người đề cập, phương pháp quản lý nói trên sẽ giảm nhẹ gánh nặng công việc của Bộ và nâng hiệu suất quản lý lên nhiều lần.

Lấy ví dụ chuyện liên quan đến các chương trình đào tạo liên kết với các cơ sở giáo dục nước ngoài. Thay vì yêu cầu các trường báo cáo, tại sao không yêu cầu các trường công khai những thông tin cần thiết cho người học và để người học tự đánh giá để chọn hay không chọn chương trình họ cần theo học. Việc công khai phải rất cụ thể, như tên, bằng cấp, kinh nghiệm của các giảng viên, tổng thời lượng giảng viên nước ngoài trực tiếp giảng dạy là bao nhiêu, trường nước ngoài đã được kiểm định chất lượng chưa, ai là nơi cấp chứng nhận, học phí bao nhiêu. Vai trò của Bộ lúc đó là cung cấp các công cụ để người học sử dụng trong việc đánh giá, như tổ chức kiểm định nào đáng tin cậy, và nghiêm khắc xử lý trường nào không chịu công khai, như rút giấy phép liên kết.

Hay chuyện dự thảo quy định về biên soạn giáo trình đại học, chắc chắn sẽ có nhiều ý kiến phản đối quy định chủ biên phải là giáo sư, phó giáo sư hay tiến sĩ. Sẽ có nhiều ý kiến nếu những trường hợp ngoại lệ rất hợp lý. Nếu các trường hay các giảng viên được quyền chọn sách giáo khoa như thông lệ rất bình thường ở các nước thì ắt không cần có dự thảo này. Quyền chọn sách hay, sách phù hợp sẽ tự động loại bỏ các sách biên soạn lôm côm, sao chép đủ kiểu đang được các giáo sư chính hiệu đứng tên tác giả chứ không cần bất kỳ quy định nào.

Một trong những nguyên nhân đằng sau sự ôm đồm trong công tác quản lý nhà nước là do thiếu tin tưởng ở khả năng của người được quản lý – khả năng thẩm định đúng sai, khả năng phản biện cái sai, khả năng miễn nhiễm trước cái xấu. Đó là một thực tế. Và bất kỳ thay đổi nào cũng phải có sự khởi đầu – có thể gian nan, có thể có nhiều xáo trộn. Nhưng chỉ sau một thời gian, chính các mối quan hệ với các lợi ích khác nhau sẽ tự điều chỉnh để tiến đến sự cân bằng. Và để rút ngắn quá trình này, vai trò của người quản lý nhà nước là cung cấp thông tin, tạo sự minh bạch cũng như một thái độ nghiêm khắc với những bên vi phạm – chứ không phải chăm chăm sử dụng công cụ hành chính như là biện pháp quản lý duy nhất.

Cập nhật: Chuyện chung quanh cái phôi bằng do Bộ GD-ĐT in ấn và phát hành cho các trường đại học, cao đẳng toàn quốc sử dụng bị chê sót nhiều mục cũng do cái lỗi ôm đồm mà ra. Tại sao không giao cho trường tự in và cấp bằng? Không lẽ chỉ vì lợi nhuận từ việc in phôi bằng mà Bộ kéo dài việc ôm đồm này từ năm này qua năm khác?

Thứ Sáu, 12 tháng 3, 2010

Lúng túng chuyện giá

Lúng túng chuyện giá

Dai dẳng mấy tháng nay, giới đầu tư nước ngoài ở Việt Nam nhiều lần lên tiếng bày tỏ sự lo ngại trước khả năng nhà nước tăng cường kiểm soát giá một số mặt hàng trong khi giới kinh doanh trong nước hầu như chưa thấy lên tiếng về vấn đề này. Vì sao thế?

Nguồn gốc chuyện kiểm soát giá

Căn nguyên của chuyện kiểm soát giá là bản dự thảo một thông tư do Bộ Tài chính soạn thảo nhằm thay thế Thông tư 104 được ban hành từ cuối năm 2008. Trong khi Thông tư 104 quy định khá chi tiết các điều kiện áp dụng các biện pháp bình ổn giá đối với một số mặt hàng (ví dụ đối với sữa: “Trong thời gian tối thiểu 15 ngày liên tục, giá bán lẻ sữa tăng từ 20 % trở lên so với giá thị trường trước khi có biến động”) thì dự thảo chi ghi những điều kiện chung chung như “mức giá tăng cao hơn so với mức giá đã đăng ký, đã kê khai trước đó với cơ quan có thẩm quyền”… Với các loại hàng hóa, dịch vụ phải đăng ký giá, Thông tư 104 chỉ giới hạn vào các doanh nghiệp có trên 50% vốn sở hữu nhà nước trong khi dự thảo mở rộng ra tất cả doanh nghiệp, cá nhân sản xuất, kinh doanh các mặt hàng thuộc danh mục phải đăng ký giá, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Việc đưa ra một dự thảo mới thay thế cho Thông tư 104 là do Thông tư này đã không làm được nhiệm vụ bình ổn giá như mục tiêu đề ra. Ví dụ trong năm 2009 dư luận xã hội nóng lên chuyện giá sữa tăng liên tục, nhiều người bất bình vì có loại sữa giá ở thị trường Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các thị trường khác trong khu vực. Thế nhưng Thông tư 104 đã không cung cấp cho các cơ quan nhà nước cũng như chính quyền địa phương một công cụ để bình ổn giá vì đã quy định chỉ áp dụng các biện pháp bình ổn giá khi giá bán lẻ sữa tăng từ 20% trở lên trong thời gian tối thiểu 15 ngày liên tục. Trở ngại tương tự cũng xảy ra với các mặt hàng khác như gạo, thuốc chữa bệnh, đường… Nếu giá các mặt hàng này tăng dưới mức quy định trong Thông tư thì các cấp quản lý cũng đành chịu.

Lập luận của giới đầu tư nước ngoài

Nay khi dự thảo đưa vào diện đăng ký giá, kê khai giá cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngay lập tức giới đầu tư nước ngoài phản ứng. Lần lượt các hiệp hội doanh nhân nước ngoài như EuroCham, AmCham đã gởi thư cho Bộ Tài chính, Chính phủ, trả lời báo chí nước ngoài và tổ chức hội thảo để phản đối các quy định kiểm soát giá.

Họ không hiểu vì sao Việt Nam lại muốn quay lại cơ chế kiểm soát giá chứ không theo quy luật thị trường và để thị trường quyết định giá hàng hóa. Họ cho rằng các quy định trong dự thảo sẽ gây ra những gánh nặng quản lý cho các doanh nghiệp khi phải thực hiện việc đăng ký giá cho hàng ngàn chủng loại hàng, rằng các thông tin về phương án giá (như giá vốn, giá nhập khẩu, chi phí bán hàng, lợi nhuận dự kiến…) là bí mật kinh doanh nay lại phải kê khai, đăng ký.

Các nhà đầu tư cũng cho rằng với khả năng có chuyện kiểm soát giá như thế, các dự án FDI vào các lãnh vực sản xuất hàng hóa trong danh mục như sản xuất thức ăn gia súc, sản xuất dầu thực vật, phân bón, và sữa sẽ lưỡng lự trước khi quyết định đầu tư vì không nhà đầu tư nào muốn sản phẩm của mình phải chịu áp đặt giá. Họ cũng đặt vấn đề liệu kiểm soát giá như thế có trái với các cam kết WTO hay không bởi các văn bản gia nhập có cam kết: “kể từ ngày gia nhập WTO, Việt Nam sẽ áp dụng các biện pháp quản lý giá phù hợp với quy định của WTO”.

Vấn đề tâm lý

Sự bất lực của cơ quan quản lý giá đối với một số mặt hàng như sữa, đường hay tân dược trong năm 2009 là yếu tố thuận lợi cho việc ra đời dự thảo thay thế cho Thông tư 104. Việc loại bỏ các điều kiện cụ thể trước khi có thể áp dụng các biện pháp bình ổn giá được kỳ vọng sẽ giúp cơ quan quản lý kiểm soát được giá sữa, giá thuốc chữa bệnh bất kể giá có tăng dưới 20% (sữa) hay dưới 15% (thuốc chữa bệnh). Buộc đăng ký giá đối với tất cả các khâu từ sản xuất, nhập khẩu, bán buôn, bán lẻ cho đến đại lý cũng được kỳ vọng sẽ lấp khe hở của Thông tư 104 khi trong thực tế năm 2009, các doanh nghiệp kinh doanh sữa hay thuốc chữa bệnh ở Việt Nam là nhà phân phối cho các hãng nước ngoài, không thuộc diện đăng ký giá. Chính vì thế mà đã từng có những kiến nghị Bộ Tài chính sửa đổi Thông tư 104 theo hướng “tất cả doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các mặt hàng thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ Nhà nước bình ổn giá phải thực hiện đăng ký giá theo quy định pháp luật”.

Bối cảnh những tháng đầu năm 2010 cũng thuận lợi cho dự thảo khi nhiều mặt hàng liên tục tăng giá, trong đó có nhiều mặt hàng là đầu vào cho dây chuyền sản xuất của nhiều doanh nghiệp khác. Bởi vậy, doanh nghiệp trong nước giữ im lặng trước dự thảo là điều dễ hiểu. Mặt khác, cũng có phỏng đoán, giới doanh nghiệp trong nước hiểu rõ tính bất khả thi của các biện pháp kiểm soát giá nên giữ thái độ im lặng vì cho rằng mọi việc rồi sẽ “đâu vào đó”. Chuyện giá xăng tăng liên tục bất kể nhiều quy định chặt chẽ là một minh họa điển hình.

Nhưng quan trọng hơn là tính khả thi

Việc kiểm soát giá chưa bao giờ là một vấn đề mang tính khả thi cao. Giả dụ theo tinh thần của dự thảo, để áp dụng biện pháp bình ổn giá, Bộ Tài chính có thể quy định giá tối đa và giá tối thiểu cho một sản phẩm, nhà cung cấp sẽ giữ lại không đưa mặt hàng này vào thị trường nữa và ngay lập tức thị trường sẽ hình thành những loại “chợ đen” buôn bán “chui” các sản phẩm này với giá thật sự theo cung cầu thị trường. Biện pháp kiểm soát hàng tồn kho của doanh nghiệp là sự can thiệp quá mức vào việc kinh doanh, sẽ vấp phải sự chống đối cao hơn nữa.

Kiểm soát giá sẽ dẫn đến sự khan hiếm giả tạo như thời kỳ bao cấp, phải mua hàng hóa bằng tem phiếu và sau cùng giá cả sẽ trở nên đắt đỏ, lạm phát cao sẽ quay trở lại – những hệ quả hoàn toàn trái ngược mục tiêu của dự thảo mong muốn đạt được.

Dự thảo có nhiều đoạn mang tính mơ hồ không định lượng được như “biến động một cách bất thường”, “giá tăng quá cao hoặc quá thấp không hợp lý”, “những yếu tố hình thành giá không hợp lý”. Làm sao để doanh nghiệp biết được thế nào là bất thường, thế nào là không hợp lý thì không thấy dự thảo hướng dẫn hay giải thích. Thử hỏi với quy định như thế này “giá do các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quyết định giá không đúng các yếu tố hình thành giá theo quy định của pháp luật” làm sao doanh nghiệp hiểu để tuân thủ?

Bộ máy hành chính phục vụ công việc kiểm soát giá cũng không thể nào kham nổi khối lượng công việc khổng lồ, tiếp nhận đăng ký giá, theo dõi biến động giá, hiệp thương giá… vì giá chịu rất nhiều yếu tố đầu vào khác nhau tác động như tỷ giá, giá thế giới, giá xăng dầu, giá điện, lương, chi phí sản xuất… Không thể nào tưởng tượng nổi chuyện doanh nghiệp sản xuất một mặt hàng trong diện đăng ký giá, mỗi khi thay đổi giá thì phải thực hiện đúng quy trình thực hiện phương án điều chỉnh giá phức tạp mới được tăng hay giảm giá bán. Có những quy định mới nhìn vào đã thấy không thể nào thực hiện được, không hiểu sao dự thảo vẫn đưa vào. Ví dụ, Sở Tài chính sẽ là nơi tiếp nhận hồ sơ đăng ký giá của các thành phần kinh tế khác (ngoài doanh nghiệp do Nhà nước nắm 51% vốn điều lệ trở lên – đăng ký ở Bộ Tài chính) nhưng làm sao một sở ở một địa phương có đủ nguồn lực để biết doanh nghiệp đăng ký giá như thế nhưng có thực hiện đúng giá đã đăng ký không ở trên các thị trường khắp cả nước. Làm sao doanh nghiệp, mặc dù đã đăng ký giá, có thể kiểm soát được việc bán đúng giá đã đăng ký tại hàng chục ngàn hay thậm chí hàng trăm ngàn điểm bán lẻ trên khắp cả nước.

Biện pháp thay thế

Cứ vài ba năm, lại rộ lên một chuyện nào đó với cộng đồng đầu tư nước ngoài. Cách đây mấy năm là chuyện hiểu nhầm phải ghi tên công ty bằng tiếng Việt, rồi trước đó nữa hai giá. Nay vấn đề kiểm soát giá thật sự là một chuyện không hay ho gì cho việc quảng bá môi trường kinh doanh của Việt Nam. Hiện nay Việt Nam vẫn còn bị xem là nền kinh tế phi thị trường, những nỗ lực để các nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường chắc chắn bị ảnh hưởng xấu bởi chuyện kiểm soát giá mà tính khả thi, như phân tích ở trên là hầu như bằng không.

Thông tư 104 với đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp nhà nước nắm cổ phần chi phối mà cũng không triển khai được trong thực tế thì dự thảo thay thế với đối tượng mở rộng ra nhiều lần cũng sẽ khó lòng thực thi. Tại sao không sử dụng các Luật đã có như Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ người tiêu dùng và quan trọng nhất là quy luật thị trường để kiểm soát giá. Riêng với các mặt hàng “nhạy cảm” với công luận như sữa, thuốc chữa bệnh thì nên có những nghiên cứu riêng để áp dụng. Điều quan trọng đối với vai trò của các cơ quan nhà nước trong quản lý giá là tính minh bạch, là thông tin rõ ràng trong các khâu phân phối để người tiêu dùng tự mình quyết định. Chính họ là nguồn áp lực lớn nhất buộc nhà sản xuất phải điều chỉnh giá cho phù hợp với cung cầu thị trường. Vai trò đó cũng là tạo một môi trường kinh doanh có cạnh tranh lành mạnh chứ không phải là dùng các biện pháp hành chính, càng làm méo mó thị trường, càng tạo điều kiện cho đầu cơ giá.

Thứ Hai, 1 tháng 3, 2010

Báo chí thời kỹ thuật số

Báo chí thời kỹ thuật số

Làng báo in đang suy sụp vì doanh thu quảng cáo sụt giảm cùng với đà sụt giảm lượng phát hành. Cả một ngành đang loay hoay tìm lối thoát và cùng lúc, sự xuất hiện của các thiết bị đọc sách báo điện tử (ebook reader) đang gợi ra những giải pháp mới.

Chuyện ở nước khác

Một nhà báo đã cất công tính toán và kết luận, tờ New York Times sẽ tiết kiệm được một khoản tiền lớn nếu mua thiết bị đọc sách báo của Amazon, chiếc Kindle, rồi phát không cho độc giả để họ nhận báo qua đường wireless thay vì nhận bản in. Nói cách khác, chi phí in và giao tờ New York Times một năm cho một người đặt mua dài hạn đắt gấp đôi chi phí mua một máy Kindle tặng không cho khách hàng.

Tính toán cụ thể, nhà báo này cho biết chi phí in ấn và phát hành của New York Times mỗi năm chừng 644 triệu đô-la. Tờ báo này có chừng 830.000 độc giả dài hạn từng đặt mua báo trên hai năm. Mỗi chiếc Kindle giá 359 đô-la, tính ra mua Kindle tặng hết cho từng ấy người cũng chỉ tốn 297 triệu đô-la mà thôi.

Dĩ nhiên đây là chuyện “trà dư tửu hậu” vì đâu phải ai cũng thích đọc báo trên Kindle; New York Times cũng phải in và vận chuyển báo đến tay bạn đọc mua tại quầy; trên Kindle chưa chạy được quảng cáo – nguồn thu quan trọng nhất của ngành báo in. Điều nhà báo này muốn chứng minh là việc in ấn rồi chuyển tải tờ báo đến tay bạn đọc hiện đang trải qua nhiều thay đổi – công nghệ đã có sẵn – vấn đề là ngành báo chí liệu có nắm được cơ hội này để tìm ra một mô hình kinh doanh phù hợp.

Thật ra, đã có một vài tờ báo ở Mỹ đang thử nghiệm mô hình mới. Các tờ Washington Post, New York TimesBoston Globe chào mời các độc giả ở những vùng mà mạng lưới phát hành không vươn đến kịp thời được mua Kindle giảm giá nếu đồng ý đặt mua báo dài hạn. Không rõ mức giảm giá là bao nhiêu nhưng nhiều tờ báo khác đang thương lượng với Amazon và các hãng sản xuất ebook reader khác để thu hút độc giả theo cách tương tự như tờ Los Angeles Times.

Trong bối cảnh đó, chiếc iPad mà hãng Apple vừa giới thiệu, dù bị giới công nghệ chê bai đủ kiểu, lại được giới làm báo kỳ vọng sẽ thay đổi tình hình kinh doanh như iPod đã thay đổi mô hình kinh doanh nhạc số. Hiện nay Amazon đã có phần mềm Kindle dùng cho iPhone và iPod Touch và nhiều người dùng hai loại thiết bị này đã sử dụng gói phần mềm này để đọc sách từ Amazon. iPad như một chiếc iPod Touch ngoại cỡ sẽ hấp dẫn loại người đọc này vì màn hình lớn, điều khiển dễ dàng, mang xách gọn nhẹ. Một yếu tố nữa mà nhiều người kỳ vọng Kindle hay iPad có thể thúc đẩy sự chuyển biến trong ngành phát hành báo chí là chuyện môi trường. Thử tưởng tượng khối lượng gỗ, mực in, xăng dầu sẽ tiết kiệm được nếu ngành báo bỏ qua công đoạn in ấn, vận chuyển để đưa nội dung báo đến tay người đọc qua mạng không dây. Kindle, iPad sẽ thúc đẩy sự ra đời hàng loạt thiết bị ebook reader trong thời gian tới với giá ngày càng rẻ, chức năng ngày càng tinh vi – chắc chắn hướng phát hành sách báo qua con đường này sẽ ngày càng được khẳng định.

Tuy nhiên đây không phải là con đường dễ dàng. Theo tính toán lạc quan nhất, ebook readers sẽ tạo ra một doanh thu chừng 325 triệu đô-la mỗi năm trong những năm sắp tới, cộng thêm chừng 150 triệu đô-la doanh thu từ quảng cáo. Và các bạn có biết doanh thu ngành báo chí Mỹ năm rồi sụt giảm bao nhiêu không? 10 tỷ đô-la! Sự chênh lệch giữa hai con số này cho thấy ebook reader, dù phát triển vượt bậc trong những năm tới, cũng chưa phải là vị cứu tinh cho ngành báo.

Một con đường khác mà nhiều báo đang cân nhắc là tính phí cho độc giả đọc qua mạng. Người ta nhận thấy dù lượng báo in sụt giảm, lượng người đọc báo qua mạng ngày càng tăng. Tuy nhiên, quảng cáo đi kèm với nội dung lại không tăng như mong muốn nên đa phần các ấn bản điện tử của các tờ báo lớn vẫn lỗ như nhiều năm trước đây. Tính phí độc giả trực tuyến là giải pháp phải tính đến. Ngày 20-1-2010, New York Times tuyên bố sẽ tính phí với những ai muốn đọc báo của họ trên Internet. Đây chỉ mới là tuyên bố ý định còn kế hoạch triển khai như thế nào thì chưa định hình – thậm chí mốc thời gian triển khai được kéo lùi đến năm 2011. Về nguyên tắc, độc giả mua báo dài hạn được đọc báo trên mạng miễn phí hoàn toàn, kể cả người chỉ đặt mua ấn bản cuối tuần; độc giả bình thường được vào đọc một số bài nhất định, vượt quá số bài đó, thì họ phải trả tiền. Thật ra, New York Times từng áp dụng chuyện tính phí như thế trong quá khứ. Năm 2005, tờ báo này đưa ra dịch vụ TimesSelect, với mức phí 7,95 đô-la/tháng, độc giả có thể đọc những bài báo mà người không đăng ký không truy cập được. Phí nguyên năm là 49,95 đô-la. Sau hai năm cung ứng dịch vụ này, mặc dù có cả triệu người đăng ký, New York Times tuyên bố hủy bỏ dịch vụ nhằm thu hút thêm người đọc và kỳ vọng tăng thêm doanh thu quảng cáo trực tuyến.

Chuyện làng báo Việt Nam

Ở Việt Nam, xu hướng chuyển từ đọc báo in sang đọc báo mạng cũng đang xảy ra dù tình hình chưa đến nỗi khốc liệt như ở một số nước khác. Tuy nhiên, ở Việt Nam, xu hướng này sẽ dẫn đến những hệ lụy quan trọng mà nếu ngành báo in không giải quyết được ngay bây giờ thì sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải hơn các nước khác.

Đầu tiên là chuyện bản quyền. Báo chí nước ngoài có thể toan tính khả năng bắt người đọc báo mạng trả tiền nhưng báo chí điện tử trong nước thì chịu – bởi một bài báo hay đăng ở một trang nào đó sẽ nhanh chóng bị hàng chục trang khác, cắt về, dán lên trang của mình một cách thoải mái. Giả thử một tờ báo quyết định khóa chừng một nửa nội dung đặc sắc của mình, chỉ cho người đọc có trả phí truy cập nhưng một website tổng hợp thông tin, bỏ ít tiền để vào đọc và “cắt dán” thì mô hình tính tiền qua mạng của tờ báo kia sẽ bị sụp đổ.

Những năm trước khi nhiều người lên tiếng phê phán cách làm sao chép nguyên xi các bài báo của nhau ở nhiều trang tin điện tử, hiện tượng này đã gần như chấm dứt ở các trang tin đàng hoàng, nghiêm túc nhưng vẫn còn tràn lan ở các trang tin nhỏ hay loại trang chuyên đăng tin giật gân câu khách. Chúng ta phải có những chiến dịch mạnh tay ngăn chận chuyện này – nếu không sau này sự sụp đổ của báo chí ở nước ta về mặt tài chính sẽ còn nhanh hơn ở Mỹ. Và có lẽ bây giờ chúng ta mới hiểu vì sao giới đầu tư phương Tây đến đâu cũng đặt nặng vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đến thế. Không bảo vệ được bản quyền tin bài trên mạng, chúng ta sẽ không thể tiến hành các giải pháp mà thế giới đang thử nghiệm.

Thứ hai là sự thay đổi thói quen ở người đọc. Theo khảo sát quy mô nhỏ ở một số loại độc giả, một tỷ lệ rất lớn người đọc cho biết họ vẫn ưa chuộng đọc báo in hơn là đọc báo trên mạng nhưng sự xuất hiện và phổ biến của báo mạng làm họ thay đổi cách mua báo. Nếu trước đây họ mua nhiều tờ thì nay chỉ chọn một tờ họ thích nhất để đọc kỹ; còn lại sẽ bổ sung những đề tài khác, những tin khác bằng thông tin từ báo mạng. So với các nước đang phát triển khác, sự phổ biến của mạng Internet ở Việt Nam là nhanh hơn nhiều nước khác. Mối liên hệ với cộng đồng người Việt ở nước ngoài khiến người trong nước từ lâu đã tiếp cận và sử dụng Internet nhanh hơn nhiều nước khác – đầu tiên là email, rồi đến chat và sau đó là đọc tin tức. Cho nên tác động của báo mạng lên báo in ở Việt Nam là có chứ không phải là không đáng kể như nhiều người nghĩ.

Thiết nghĩ những thiết bị như iPad hay Kindle khó lòng phổ biến ở Việt Nam ngoại trừ một số lượng nhỏ những người ham thích công nghệ. Thế nhưng con đường báo mạng đến tay người đọc sẽ dần dần chuyển từ máy tính để bàn sang… điện thoại di động và từ từng địa chỉ báo mạng riêng lẻ sang… những nơi tổng hợp thông tin (một phần là vì sự lỏng lẻo trong việc bảo vệ bản quyền đã nói ở trên). Dự báo trong thời gian tới, các dịch vụ tổng hợp tin tức này sẽ ngày càng đa dạng và sẽ nhắm đến từng nhóm đối tượng người đọc khác nhau. Rõ ràng chúng sẽ đóng vai trò ngược lại với những thông tấn xã trước đây. Phóng viên một báo viết một tin hay – ngay lập tức tin của anh này đăng trên báo của mình sẽ được hiển thị lên các trang tin tổng hợp. Và nơi đây sẽ phân phối lại tin này đến những nhóm độc giả riêng mình. Đây là xu hướng không tránh được vì nó hữu hiệu, nó tiết kiệm công sức thời gian và tiền bạc cho tất cả mọi người liên quan. Vấn đề là có sự thỏa thuận giữa nơi giữ bản quyền và nơi làm dịch vụ cung cấp thông tin.

Phương pháp trả tiền cho việc đọc báo qua mạng (dù bằng máy tính hay bằng điện thoại di động) cũng sẽ khác với các nước. Chuyện dùng thẻ tín dụng để trả tiền mua báo điện tử ở Việt Nam là chuyện xa vời. Ngược lại, khả năng người dùng nhắn một tin, chi phí vài ngàn đồng để được vào đọc một bài báo hay được quyền truy cập một trang tin điệntử cả 1 tháng là rất có thể xảy ra. Việt Nam có thuận lợi hơn các nước là người tiêu dùng đã bước đầu làm quen với chuyện dùng điện thoại di động để trả tiền cho một số dịch vụ. Thử hỏi nếu người ta sẵn sàng nhắn một tin tốn 3.000 để đọc vài lời đoán số tử vi vớ vẩn, tại sao không thể kỳ vọng họ cũng sẽ nhắn tin, lấy mã số để vào trang web bị khóa để đọc tin hay bài họ đang quan tâm.

Tóm lại, người dân vẫn cần tin tức, vẫn muốn đọc báo, xã hội vẫn cần những nhà báo chuyên nghiệp thay mặt họ đi săn lùng tin tức và cho họ biết chuyện gì đang xảy ra. Thế nhưng vì Internet giúp họ những công cụ tìm kiếm thông tin nhanh hơn, vì có những trang web tổng hợp tin tức tốt hơn, độc giả đang bắt đầu giảm lượng báo in, thay vì mua nhiều tờ nay chỉ một hai tờ; trước mua một hai tờ nay chỉ lên mạng đọc… cũng những tờ đó. Vấn đề ở chỗ, làm sao để làng báo tìm ra mô hình tạo ra được doanh thu từ báo mạng để bù đắp chi phí và tiếp tục duy trì hai loại báo in và báo điện tử song song trong nhiều năm tới.

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2010

Triết học và tiếu lâm

Tiếu lâm và triết học

Chuyện tiếu lâm và triết học là hai lãnh vực rõ ràng không liên quan gì đến nhau; một bên đọc lướt để cười, một bên nghiền ngẫm để giải đáp những bí ẩn của cuộc đời. Thế nhưng hai tác giả Thomas Cathcart và Daniel Klein lại bỏ công viết một cuốn sách nhằm “tìm hiểu triết học thông qua chuyện tiếu lâm” với tựa đề “Plato và Platypus bước vào quán rượu…” Có lẽ cách hay nhất là dịch chương “Giới thiệu” từ cuốn sách này để chính các tác giả trình bày cho bạn đọc vì sao họ có ý tưởng “quái chiêu” như thế.

* * *

Dimitri: Nếu thần Atlas nâng quả đất trên vai, thế thì ai nâng thần Atlas?

Tasso: Thần Atlas đứng trên lưng con rùa.

Dimitri: Nhưng rùa đứng trên cái gì?

Tasso: Trên một con rùa khác.

Dimitri: Nhưng con rùa ấy đứng trên cái gì?

Tasso: Dimitri thân mến à, toàn là rùa suốt lượt.

* * *

Mẩu đối thoại kiểu Hy Lạp cổ đại này minh họa rõ ràng nhất khái niệm triết học về hồi quy bất tận, cái ý niệm nảy sinh khi ta hỏi về nguyên ủy cuộc sống, về vũ trụ, thời gian và không gian, và quan trọng nhất về một đấng sáng tạo. Phải có cái gì đấy tạo ra đấng sáng tạo cho nên mối dây nhân quả - hay chú rùa – không dừng lại ở đấng sáng tạo được. Hay ngay cả với đấng sáng tạo đứng sau. Hay đứng kế sau nữa. Phải là đấng sáng tạo suốt lượt – dưới.. hay trên, nếu ta thích truy tìm các đấng sáng tạo theo hướng đó.

Nhưng hãy lắng nghe lão Tasso lại một lần nữa. Không chỉ tỏ tường, câu đáp của lão “Toàn rùa suốt lượt” rõ ràng còn mang tính tiếu lâm nữa.

Điều đó không làm chúng tôi ngạc nhiên. Cấu trúc và yếu tố chọc cười của chuyện tiếu lâm cũng giống cấu trúc và yếu tố “ngộ ra” của các khái niệm triết học. Chúng kích thích đầu óc chúng ta theo cùng một cách. Đấy là bởi triết học và truyện cười có cùng xuất phát điểm: làm đảo lộn suy nghĩ bình thường của chúng ta về mọi vật và làm xuất lộ những sự thật bị giấu kín và thường là không hay ho lắm về cuộc đời. Cái mà nhà triết gia gọi là thấu thị, giới tiếu lâm gọi là chìa khóa chọc cười.

Ví dụ, hãy xem chuyện tiếu lâm cổ điển sau. Bề ngoài, trông như chuyện ngu đến bật cười nhưng xét kỹ, nó nói lên cái thâm sâu của triết lý kinh nghiệm chủ nghĩa của người Anh: chúng ta có thể dựa vào loại thông tin nào về thế giới quanh ta đây.

Morty về nhà thấy vợ và thằng bạn thân nhất của mình là Lou nằm trên giường, không mảnh vai che thân. Ngay khi Morty định mở miệng, Lou nhảy khỏi giường và thốt lên: “Trước khi mày có bất kỳ hành động gì, mày phải hỏi chính mày: nên tin tao hay tin vào mắt mày”.

Bằng cách thách thức tính vượt trội của các giác quan, Lou đã đặt ra câu hỏi, loại dữ liệu nào là chắc chắc và tại sao. Cách thu nhận thông tin về thế giới quanh ta – ví dụ, qua mắt – liệu có đáng tin cậy hơn các cách khác – chẳng hạn, tin vào miệng Lou miêu tả hiện thực?

Đây là một ví dụ khác về triết-tiếu lâm, lần này rút ra từ phép loại suy – nếu hai sự việc có cùng kết quả, chúng ắt phải có cùng nguyên nhân.

Một lão ông 90 tuổi đi gặp bác sĩ, hỏi: “Nè bác sĩ, cô vợ 18 tuổi của tôi sắp sinh con”.

Bác sĩ bảo: “Để tôi kể ông nghe một câu chuyện. Một gã đi săn, nhưng thay vì lấy súng lại lấy nhầm cái dù. Khi một con gấu ào đến tấn công, gã bèn giương dù lên, bắn, gấu lăn ra chết”.

Ông lão thốt lên: “Vô lý. Chắc có ai bắn gấu từ hướng khác”.

Bác sĩ nói: “Đấy, tôi cũng nghĩ vậy”.

Không thể tìm ra một ví dụ minh họa nào hay hơn về phép loại suy, một thủ thuật triết học đang được dùng (mà lại dùng sai) trong tranh luận về Thiết kế Thông minh (nghĩa là, nếu có con mắt, ắt trên trời phải có đấng thiết kế mắt).

Chúng tôi có thể kể miết, và thực tế là sẽ kể, từ thuyết bất khả tri đến thiền, từ thông diễn học đến luân hồi. Chúng tôi sẽ chứng minh rằng các khái niệm triết học có thể minh họa bằng chuyện tiếu lâm và nhiều chuyện tiếu lâm hàm chứa những nội dung triết học kỳ thú.

Sinh viên lạc lối vào một lớp triết học thường hy vọng tìm được cách lý giải, chẳng hạn, về ý nghĩa của mọi vật nhưng một gã đầu bù tóc rối, ăn mặt xốc xếch, lừ đừ lên bục giảng, bắt đầu rao giảng về ý nghĩa của “ý nghĩa”.

Gã nói, chuyện gì ra chuyện nấy. Trước khi chúng ta trả lời bất kỳ câu hỏi nào, lớn hay nhỏ, chúng ta cần biết tự bản thân câu hỏi có ý nghĩa gì. Miễn cưỡng lắng nghe, chúng ta lại thấy gã này nói hay ra phết.

Triết học – và triết gia là như thế đấy. Câu hỏi làm nảy sinh câu hỏi, các câu hỏi này làm bật ra hàng loạt câu hỏi khác nữa. Toàn là câu hỏi suốt lượt.

Chúng ta có thể bắt đầu bằng những câu hỏi cơ bản như “Ý nghĩa của mọi vật là gì?” hay “Có tồn tại Thượng đế không?” hay “Làm sao tôi sống đúng với chính mình?” hay “Tôi có vào nhầm lớp không?” nhưng chẳng chóng thì chầy chúng ta sẽ phát hiện ra mình phải hỏi những câu hỏi khác để trả lời những câu nguyên thủy. Quá trình này đã khai sinh ra nhiều ngành triết học, mỗi ngành giải quyết các câu hỏi lớn bằng cách hỏi và cố trả lời những câu hỏi liên quan.

Cho nên “Ý nghĩa của mọi vật là gì?” giải quyết một chuyên ngành gọi là siêu hình học; “Có tồn tại Thượng đế không?” là ngành triết học tôn giáo; “Làm sao tôi sống đúng với chính mình?” thuộc chuyên ngành hiện sinh; “Tôi có vào nhầm lớp không?” là một phân ngành triết học mới gọi là siêu triết học, nơi đặt ra câu hỏi “Triết học là gì?” Cứ thế, mỗi lãnh vực triết học giải quyết những loại câu hỏi và khái niệm khác nhau…

Khi hai đứa chúng tôi lảo đảo bước ra khỏi lớp học đó, chúng tôi bối rối và hoang mang đến nỗi chúng tôi nghĩ đầu óc mình không bao giờ gỡ nỗi mớ bòng bong đao to búa lớn này. Đấy là lúc một gã sinh viên cao học thơ thẩn bước đến, kể cho chúng tôi nghe câu chuyện tiếu lâm về Morty về nhà thấy Lou thằng bạn thân nhất nằm trên giường với vợ mình.

“Đấy mới chính là triết!” – gã nói.

Chúng tôi gọi đấy là triết-tiếu lâm.

Nói thêm: Thomas Cathcart và Daniel Klein tốt nghiệp ngành triết từ đại học Harvard. Sau đó Thomas nghiên cứu đời sống các băng đảng ở Chicago còn Daniel chuyên viết chuyện tiếu lâm cho các tay tấu hài chuyên nghiệp. Cuốn “Plato và Platypus bước vào quán rượu…” bị 40 nhà xuất bản từ chối in nhưng đến khi nhà xuất bản thứ 41 phát hành đã nhanh chóng lọt vào danh sách sách bán chạy nhất của New York Times và đã được dịch ra 20 thứ tiếng.

Thứ Tư, 20 tháng 1, 2010

Nhung lat cat thuc te

Những lát cắt thực tế

Nguyễn Vạn Phú

Thực và ảo

Chiều tối ngày 12-1, lúc đến sân bay Midway ở Chicago, vừa ra khỏi đường ống đã thấy những nhóm người đứng túm tụm mắt dán chặt vào màn hình TV treo trên cao, tôi biết đã có chuyện gì quan trọng xảy ra. Lúc đó, tôi còn phải chờ ở Chicago thêm một tiếng trước khi bay về Las Vegas nên vội vàng đến cổng của mình và đứng lẫn vào những người đang theo dõi tin trên đài CNN. Cơn động đất 7.0 độ Richter gần sát thủ đô Port-au-Prince của Haiti vừa mới xảy ra, tin tức vẫn còn rất sơ sài nhưng mọi người đều cảm nhận mức độ nghiêm trọng của tai họa này.

Các sân bay của Mỹ mùa năm mới này đang có chương trình tặng miễn phí sóng wifi cho du khách do Google cung cấp nên nhiều người mở laptop đọc tin. Tin tức, đủ dạng, đủ kiểu cũng tràn vào máy tính của tôi. Bên ngoài hành lang sân bay, dòng người vội vội vàng vàng đi khắp các ngã vẫn tuôn chảy, bên trong thế giới ảo, thảm họa Haiti cũng lớn dần lên với những cảnh tang thương kinh hoàng bắt đầu xuất hiện. Thế giới nào thực, thế giới nào ảo – một cảm giác thật khó phân biệt.

Càng khó phân định hơn khi đến sân bay Las Vegas, hoàn toàn không có một màn hình nào chiếu tin tức thời sự. Sân bay cũng rực rỡ nhiều màn hình to đùng nhưng tất cả được dùng để quảng cáo các show diễn đủ loại ở thành phố nổi tiếng cờ bạc và giải trí này. Dường như người ta cố ý cô lập du khách khỏi dòng thời sự để họ yên tâm ăn chơi, tiêu tiền. Thậm chí cái đập vào mắt người mới đến sân bay không phải là cảnh thường thấy mà là hàng dãy máy đánh bạc bóng loáng xếp đầy những không gian trống ở phòng chờ!

Ở khách sạn, cái cảm giác thực - ảo mơ hồ này càng lớn hơn. Bước chân vào các khách sạn lớn, chẳng hạn khách sạn Paris hay Bally’s, du khách như bị chôn trong một thế giới ảo, nơi thời gian đứng lại vì không phân biệt được ngày đêm. Sảnh khách sạn rộng mênh mông như một khu phố nhỏ ở châu Âu nhưng trần trên cao bịt kín, sơn giả bầu trời, đèn thắp mờ mờ ảo ảo suốt ngày đêm. Bên ngoài trời có thể đang sáng trưng nhưng vào bên trong, người ta có thể tưởng mình đang dạo phố vào nửa đêm. Máy đánh bạc, bàn đánh bạc để khắp nơi. Mọi người say sưa bấm nút hay theo dõi lá bài của mình. Đây là lần thứ nhì tôi quay về Las Vegas trong chỉ mấy ngày nên không còn tò mò quan sát, vội vàng lên phòng, bật TV và mở máy tính. Tin tức về cơn động đất ở Haiti chiếm trọn các kênh thời sự. Từng giờ, từng giờ, thảm họa thế kỷ này mở ra nhưng cho đến khuya hôm đó, không nguồn tin nào nói được con số thương vong dù là phỏng đoán. Tôi không biết cái nào – không khí đánh bạc bên ngoài phòng hay dòng thời sự trên TV trong phòng – là thực hơn đối với mình.

Không gian thực

Mới mấy tháng trở lại đây, khái niệm “augmented reality” (thực tế bổ sung – tương tác thực tế) bắt đầu được nói tới. Nói đơn giản, đó là khả năng đối chiếu thực tế bạn đang chứng kiến trước mắt với kho dữ liệu thông tin có sẵn trên mạng để hai bên bổ sung cho nhau, giúp người dùng có những lớp cắt thực tế tùy theo nhu cầu của họ. Lấy ví dụ, bạn có thể dùng một điện thoại thông minh như iPhone của Apple hay Nexus One của Google, chụp con đường ngay trước mặt bạn, rồi chạy một phần mềm, ngay lập tức trên màn hình chụp con đường thực tế, sẽ chồng thêm các lớp thông tin như cách đó bao xa có trạm xe buýt, tìm tiệm ăn nhanh thì rẽ hướng nào, nếu kết nối thêm Facebook, sẽ biết ai trong đám bạn bè đang ở gần đó… Ở đây chúng ta không đi vào chuyện kỹ thuật vì sao máy móc làm được chuyện đó (nhờ thiết bị định vị GPS, bản đồ có các lớp thông tin…) mà chỉ hình dung những khả năng xảy ra nhờ cái “tương tác thực tế” này. Nếu để cho trí tưởng tượng chúng ta được bay bổng, không giới hạn bởi những hạn chế hiện nay về hạ tầng hay thông tin, “augmented reality” sẽ giúp con người thoát khỏi những giới hạn vật lý và sẽ như một Tôn Ngộ Không, hoàn toàn có phép đằng vân giá vũ!

Điều muốn nói ở đây là cho dù “augmented reality” chưa phổ biến, cái cảm giác trải nghiệm nhiều lớp thực tế - vừa ảo vừa thực - là có ở nhiều người, nhất là khi đang đi xa, không gian vật lý đang trải nghiệm khác với không gian quen thuộc hằng ngày. Còn nhớ ở Triển lãm Điện tử tiêu dùng CES 2010, đồng thời với việc chiêm ngưỡng các loại đồ chơi công nghệ cao, chính chúng cũng là công cụ giúp người ở xa theo dõi thời sự ở nhà như đang diễn ra trước mắt bạn. Tôi đọc tin cựu tổng giám đốc Jetstar Pacific Lương Hoài Nam bị bắt có lẽ sớm hơn nhiều người ở nhà dù ở xa cả nửa vòng trái đất, đơn giản là vì điện thoại có phần mềm cập nhật tin tức theo thời gian thực trong khi ở nhà có thể nhiều người phải nhiều giờ sau mới đọc tin đó. Cứ tưởng tượng chỉ một thời gian rất ngắn nữa thôi, người ta có thể ngồi ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đeo kính và xem truyền hình trực tiếp 3D một trận bóng đá trong vòng World Cup. Kỹ thuật sẽ giúp người xem trải nghiệm cảm giác y như đang ngồi ngay trên khán đài, hay thậm chí gần hơn, ngay trong sân cỏ, lại có khả năng lượn theo đường bóng để quan sát kỹ hơn bất kỳ ai đang thực sự ngồi trong sân vận động nơi diễn ra trận bóng. Lát cắt thực tế nào hấp dẫn hơn, khi truyền hình 3D còn có nhiều “trò” khác, chen những lớp thực tế khác như thông số về trận đấu, thông tin về cầu thủ, bắt thực tế diễn ra chậm lại hay nhanh hơn…

Và có lẽ mỉa mai nhất là trên chuyến bay từ Bangkok về TPHCM, ngồi trên máy bay của Thai Airways International, xin tờ Bangkok Post lại đọc được ngay tin chủ tịch điều hành hãng máy bay này phải từ chức. Nguyên do là ông Wallop Bhukkanasut và bà vợ, trong một chuyến bay của chính hãng mình đã chở 30 kiện hành lý, cân nặng 398 ký từ Nhật Bản về Bangkok mà không trả tiền cước. Mặc dù hành lý này không phải của vợ chồng ông mà hình như là trái cây chở dùm cho một người bạn, ông Wallop phải ra đi sau khi người ta phát hiện nhân viên khai gian dùm ông giảm số cân còn 170 ký để được miễn cước toàn bộ. Các lớp thực tế thật-ảo đan xen nhau trong một cảm giác rất lạ. Và chỉ đến khi đối diện với dòng xe gắn máy đan chéo với xe hơi như dệt cửi trên đường phố, cảm giác thực tế ảo mới biến mất vì không “augmented reality” nào thể hiện được cảnh giao thông trên đường phố Sài Gòn!

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2009

Ôi, ngôn ngữ!

Ôi, ngôn ngữ!

Tiếng Việt đang ở trong thời kỳ thoái trào, rất cần sự trợ giúp của các nhà ngôn ngữ học để tìm lại sự trong sáng, tinh tế vốn có của nó. Nhưng đọc vào cái tiêu đề của cuộc hội thảo mới được tổ chức ở Hà Nội, tôi nghĩ khó lòng trông chờ nhiều vào sự trợ giúp như thế.

Cái tiêu đề như thế này: “Chính sách của Ðảng và Nhà nước Việt Nam về ngôn ngữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Đây là một hội thảo quốc gia do Viện Ngôn ngữ học tổ chức.

Trong cái tiêu đề dài 26 chữ, chỉ có hai chữ liên quan đến ngôn ngữ và rất dễ bị bỏ sót nếu người đọc theo quán tính đọc nhanh những cụm từ đã quá quen thuộc như “thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, “hội nhập quốc tế”. Lẽ ra những người tổ chức hội thảo nên bắt đầu từ trong nhà, mạnh dạn vượt ra cách dùng từ sáo ngữ, bị dùng nhiều quá hóa mòn để đặt một tiêu đề sát với nội dung của hội thảo hơn.

Điều đáng nói đây là cuộc hội thảo quốc gia đầu tiên sau hàng chục năm vắng bóng loại hội thảo này. Năm 1979 có một hội nghị khoa học toàn quốc mang tên ““Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ” và năm 1993 có hội thảo “Ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ quốc gia và phát triển”. Nếu chú ý chúng ta thấy tiêu đề hội thảo đi từ chỗ ngắn gọn, súc tích và chính xác đến chỗ chung chung, mơ hồ và dài dòng.

Còn nói về định hướng nội dung hội thảo, thiết nghĩ vai trò định hình ngôn ngữ chuẩn mực trong cuộc sống là do các tổ chức như Viện Ngôn ngữ học chứ không phải là chính sách của nhà nước; càng không thể nào trông chờ nhà nước ban hành một bộ luật về ngôn ngữ được.

Lấy ví dụ một chuyện đơn giản mà không ai có thẩm quyền (thẩm quyền về mặt chuyên môn chứ không phải thẩm quyền hành chính) đứng ra giải quyết. Người ta lúng túng, người ta tranh cãi nên phát âm các mẫu tự ABC là a-bờ-cờ hay a, bê, xê. Chuyện này chắc bất kỳ nhà ngôn ngữ học nào cũng có thể giải thích dễ dàng: khi phát âm để ghép vần thì phải đọc a-bờ-cờ nhưng khi đọc tên mẫu tự thì phải nói a, bê, xê.

Không nhà nước nào đủ sức định ra những chính sách và “hướng dẫn thi hành chính sách” cho vô vàn biến thể của ngôn ngữ trong cuộc sống. Chính những nhà khoa học, thông qua báo chí, sẽ là người làm công việc này, bằng các công trình nghiên cứu của mình, nhưng trước tiên là phải bằng cách sử dụng ngôn ngữ chính xác, mẫu mực của chính họ.

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2009

Ôi, số liệu!

Ôi, số liệu!

Nghĩ mà thấy khó cho những người nghiên cứu kinh tế Việt Nam sau này. Bởi khi tiếp cận một con số dù từ nguồn chính thức phát ra mà không kiểm chứng, rất dễ bị sai. Từ con số sai, mọi phân tích hay bình luận sẽ sai theo. Các số liệu đưa ra hiện nay thường chỏi nhau, sự thiếu chính xác là do lý giải các con số theo mục tiêu phát ngôn.

Lấy ví dụ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho biết “Năm 2009, khi giá vàng thế giới vọt cao hơn trong nước, Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu 32 tấn nhưng các doanh nghiệp chỉ xuất khẩu 26,7 tấn.” (Trả lời báo chí ngày 11-11-2009 khi giá vàng tăng đột biến và Ngân hàng Nhà nước tuyên bố cho nhập vàng trở lại).

Trong khi đó, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ riêng quý 1-2009, Việt Nam đã xuất khẩu vàng lên đến 2,3 tỷ đô la Mỹ. Tạm lấy giá vàng bình quân quý 1-2009 là 850 đô-la/ounce thì con số 2,3 tỷ đô-la này tương đương với 2,7 triệu ounce, tức 84 tấn. Sao Thống đốc khi nói không đối chiếu với con số xuất vàng chính thức của Tổng cục Thống kê?

Một ví dụ khác, trong báo cáo kết quả giám sát các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nhận định: “Chỉ tính riêng trong năm 2008, khối doanh nghiệp nhà nước mà nòng cốt là các tập đoàn, tổng công ty, đã đóng góp gần 40% giá trị GDP, tạo ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu và 28,8% tổng thu nội địa (không kể thu từ dầu thô và thuế xuất nhập khẩu).

Với nhận định khối doanh nghiệp nhà nước đóng góp trên 50% kim ngạch xuất khẩu, xin lấy số liệu chính thức của Tổng cục Thống kê để đối chiếu. Báo cáo cuối năm 2008 của Tổng cục viết rất rõ ràng: “Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, bao gồm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, đóng góp 49,7% vào mức tăng chung của xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, đóng góp 50,3%”. Khu vực kinh tế trong nước đóng góp 50,3% mà theo báo cáo của Quốc hội, doanh nghiệp nhà nước cũng đóng góp trên 50% vậy khu vực kinh tế tư nhân trong nước hẳn không ai xuất khẩu gì cả!

(Chỉnh sửa: Xin đính chính: tính ra khu vực kinh tế trong nước chỉ đóng góp 44,5% vào kim ngạch xuất khẩu thôi - 50,3% ở trên là đóng góp vào mức tăng xuất khẩu. Vậy thì con số theo báo cáo của Quốc hội càng không chính xác).

Có lẽ sự khác biệt là do dầu thô. Tổng cục Thống kê thì đưa dầu thô vào kim ngạch của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn báo cáo giám sát thì tính cho doanh nghiệp nhà nước. Ở đây xin lưu ý sự lẫn lộn hay cố ý lẫn lộn này sẽ ngày càng tăng vì hiện nay nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn đã được cổ phần hóa, khi cần người ta có thể xếp chúng vào khu vực kinh tế tư nhân, khi khác thì lại xếp chúng vào khu vực kinh tế nhà nước – tùy theo mục đích sử dụng số liệu. Người nghiên cứu gặp tình huống này thì chỉ biết đầu hàng.

Còn câu “tạo ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp”, thì số liệu cụ thể của Tổng cục Thống kê cho biết tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2008 (giá so sánh 1994) là 652.766 tỷ đồng, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm 164.796 tỷ đồng, tức 25,2%, không biết ở đâu ra con số 39,5%?

Ví dụ loại này còn nhiều. Cho nên bất kỳ ai bình luận trên các con số xem ra có vẻ chính thức, xin cẩn trọng đối chiếu với các con số khác, các nguồn khác, trước khi đưa ra những kết luận không thôi dễ nhầm.

Bài đăng phổ biến