Thứ Tư, 14 tháng 4, 2010

Công - tư!

Công - tư!

Tháng 7 đến sẽ có nhiều thay đổi nhân sự ở các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Ấy là do Nghị định 25/2010 của Chính phủ quy định các công ty nhà nước sắp tới khi chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì thành viên Hội đồng thành viên “không là cán bộ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước”.

Trước hết nói về tên gọi. Theo Luật Doanh nghiệp, công ty cổ phần thì có Hội đồng quản trị, công ty trách nhiệm hữu hạn thì có Hội đồng thành viên. Hiện nay các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đều tổ chức theo cơ cấu Hội đồng quản trị nên sắp tới, khi chuyển đổi tất cả sẽ phải đổi thành Hội đồng thành viên.

Với quy định thành viên Hội đồng thành viên “không là cán bộ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước”, những cán bộ nhà nước đang là bộ trưởng hay thứ trưởng được cử kiêm nhiệm các chức vụ như Chủ tịch, ủy viên Hội đồng quản trị các tập đoàn, tổng công ty sẽ phải từ nhiệm một trong hai vai trò. Ví dụ, tháng 10 năm ngoái, ông Lê Dương Quang, Thứ trưởng Bộ Công Thương được cử kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) nhưng tháng 7 năm nay sẽ không còn kiêm nhiệm như vậy được nữa. Điều đáng ngạc nhiên là truy cập vào trang web của TKV vào cuối tuần trước, trong phần “Tổ chức bộ máy” vẫn thấy ghi ông Đoàn Văn Kiển làm Chủ tịch Hội đồng quản trị tập đoàn này!

Riêng Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước không rõ có được xem là ngoại lệ hay không vì hiện nay ban lãnh đạo tổng công ty này gồm nhiều cán bộ kiêm nhiệm như ông Vũ Văn Ninh, Bộ trưởng Bộ Tài chính (kiêm nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị), ông Đỗ Hữu Hào, Thứ trưởng Bộ Công Thương; ông Cao Viết Sinh, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch-Đầu tư; ông Trần Văn Hiếu, Thứ trưởng Bộ Tài chính – tất cả đều đang kiêm nhiệm làm ủy viên Hội đồng quản trị.

Hàng loạt trường hợp tương tự như vậy sẽ phải giải quyết trước tháng 7-2010 tại nhiều tổng công ty khác, kể cả tổng công ty trực thuộc bộ hay tỉnh, thành phố.

* * *

Chuyện một quan chức phát biểu “một đất nước nghèo mà bỏ ra cả tỷ đô-la để nhập điện thoại iPhone là không cần thiết” đã được chứng minh không chính xác. Ở đây không bàn đến các con số nữa. Vấn đề là một khi phát hiện những bất cập trong thực tế (nếu có thật), giả dụ việc nhập khẩu các mặt hàng đắt tiền như điện thoại hạng sang, xe hơi giá tiền tỷ, máy bay tư nhân… điều phải làm là các cơ quan hành chính đề xuất biện pháp giải quyết như đánh thuế tiêu thụ đặc biệt. Quốc hội là nơi cân nhắc để phê chuẩn hay bác bỏ những sửa đổi luật lệ hiện hành. Khi luật lệ chưa thay đổi thì bộ máy hành chính không thể can thiệp, bất kể độ “bức xúc” có cao đến đâu.

Nhưng có nhiều trường hợp nếu cứ vin vào luật lệ hiện hành để “bao che” cho cấp dưới làm bậy thì quan chức cũng đang làm sai.

Khi công luận phát hiện ông Nguyễn Hải Châu, Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học, Bộ Giáo dục & Đào tạo (GD&ĐT) đứng tên chủ biên chừng 18 cuốn sách tham khảo ôn thi đủ các môn từ Toán, Lý đến Sử, Văn… đại diện của Bộ vẫn chống chế rằng đây là việc làm cá nhân không liên quan gì đến Bộ và xét theo Luật Xuất bản thì không có gì sai cả.

Tại sao lại sử dụng Luật Xuất bản để biện minh? Tại sao không xét đến các quy định sẵn có về việc cấm lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tư lợi cá nhân? Câu khẳng định “không có yêu cầu nào [từ Bộ] bảo các em dùng sách tham khảo” cũng không chính xác. Trong công văn số 1556 gởi các sở GD&ĐT, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học đã yêu cầu “Tiếp tục nghiên cứu quán triệt tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng chương trình THPT …”. Và ông Nguyễn Hải Châu đứng tên tác giả các tài liệu này cũng như nhiều sách tham khảo mang tựa đề gần gần giống như vậy. Tình hình những năm trước cũng vậy, ví dụ năm 2008, Vụ Giáo dục Trung học đề nghị các Sở “thông báo để các trường PTTH hướng dẫn giáo viên và học sinh lớp 12 đăng ký mua và sử dụng tài liệu ôn tập nói trên”.

Ngày xưa, người ta đã từng dặn nhau, đi qua ruộng dưa đừng cúi xuống sửa giày; đi qua vườn đào đừng đưa tay ngả mũ. Ấy là dặn nhau ý tứ trong hành xử, đừng để thiên hạ nghi ngờ trong bất kỳ tình huống nào. Đằng này sự việc đã rõ, nếu không xử lý nghiêm làm sao điều khiển được bộ máy?

Thứ Ba, 13 tháng 4, 2010

Tài trợ tín dụng là gì?

Tài trợ tín dụng là gì?

Đọc tít “Mỹ tài trợ 200 triệu USD khai thác bô-xít Lâm Đồng”, rất dễ hiểu nhầm là chính phủ Mỹ bỏ ra 200 triệu đô-la hỗ trợ cho dự án khai thác bauxite ở Lâm Đồng. Hóa ra không phải.

Đọc xuống ở dưới, với câu “ký kết thỏa thuận tài trợ vốn cho dự án Tổ hợp bô-xít Lâm Đồng trị giá 200 triệu USD trong thời hạn 13 năm giữa Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và Citibank”, cũng dễ hiểu nhầm là ngân hàng Citibank cho tập đoàn này vay 200 triệu đô-la. Cũng không chính xác.

Tài trợ vốn hay chính xác hơn, tài trợ tín dụng ở đây là thu xếp vốn vay cho một dự án rồi lấy tiền thu được từ dự án đó để trả lại nợ.

Như vậy Citibank đồng ý đứng ra làm đầu mối thu xếp khoản vốn vay 200 triệu đô-la cho Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, chứ không nhất thiết họ là nơi cho vay. Họ sẽ làm dự án, đưa ra các con số thu chi, rồi thuyết phục các nguồn có khả năng cho vay như các tổ chức tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu của các nước, để những nơi này chịu bỏ tiền ra. Đổi lại dự án phải mua máy móc thiết bị của nước cấp tài trợ tín dụng và thông thường bản thân máy móc thiết bị đó trở thành vật thế chấp cho khoản vay. Trong trường hợp này, khoản vay còn được sự bảo lãnh của Bộ Tài chính Việt Nam và sự hỗ trợ của Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư và Xuất khẩu Nhật bản. Citibank đứng giữa để nhận phí dịch vụ thôi chứ không phải họ cho vay 200 triệu đô-la cho dự án bauxite Lâm Đồng.

Chủ Nhật, 11 tháng 4, 2010

Kiện tụng quanh việc ra đời Facebook

Kiện tụng quanh việc ra đời Facebook

Những tình tiết thú vị chung quanh sự ra đời mạng xã hội nổi tiếng Facebook do tờ Silicon Alley Insider tiết lộ sau cuộc điều tra kéo dài hai năm trời.

Trong kinh doanh, tranh chấp về quyền sở hữu ý tưởng kinh doanh xảy ra thường xuyên nhưng với một mạng xã hội lớn như Facebook, có đến 400 triệu người sử dụng thường xuyên, được định giá cỡ 5-10 tỷ đô-la Mỹ thì ý tưởng khai sinh Facebook ắt có giá hàng chục triệu đô-la.

Chính thức mà nói, Facebook do cậu sinh viên năm hai trường đại học Harvard tên Mark Zuckerberg, lúc đó mới 19 tuổi thành lập vào ngày 4-2-2004. Chỉ một tuần sau đó, ba sinh viên Harvard khác cáo buộc Mark ăn cắp ý tưởng của họ. Việc cáo buộc bùng nổ thành một vụ kiện um xùm, kéo dài trong mấy năm liền. Đến năm 2008, hai bên thỏa thuận dàn xếp ngoài tòa án, ba sinh viên Harvard nhận một khoản tiền đền bù lên đến 65 triệu đô-la mặc dù Mark khẳng định anh không ăn cắp ý tưởng của ai cả. Đây là câu chuyện vào những ngày đầu tiên đó, theo tường thuật của Silicon Alley Insider .

Để tôi làm thử xem sao

Mùa thu năm 2003, hai anh em Cameron Winklevoss, Tyler Winklevoss cùng người bạn tên Divya Narendra, tất cả đang là sinh viên năm cuối đại học Harvard đang cần tìm một lập trình viên chuyên thiết kế trang web để biến một ý tưởng của họ thành hiện thực. Đó là ý tưởng của Divya nảy sinh vào năm 2002: làm một mạng xã hội cho sinh viên và cựu sinh viên Harvard, dự tính đặt tên là HarvardConnections.com.

Trước đó họ đã nhờ một sinh viên Harvard khác nhưng anh này từ chối và giới thiệu Mark Zuckerberg, một sinh viên năm hai nhưng đã khá nổi tiếng vì đã xây dựng trang web Facemask. Facemask từng đẩy Mark vào chỗ gặp phiền toái vì trang web này chuyên lấy hình ảnh của sinh viên Harvard từ website chính thức của nhà trường rồi xếp từng cặp ảnh với nhau. Người xem có thể bình chọn ảnh của người nào là hấp dẫn hơn, rồi tổng hợp thành danh sách sinh viên Harvard theo mức độ hấp dẫn theo đánh giá của bạn bè. Facemask ngay lập tức trở thành một hiện tượng trong giới sinh viên, sau hai tuần có đến 22.000 lượt bình chọn. Trong lúc đó nhiều sinh viên Harvard khác nổi giận, lôi Mark ra trước hội đồng kỷ luật của sinh viên vì tội vi phạm an ninh mạng, vi phạm bản quyền, vi phạm tính riêng tư của cá nhân.

Lúc được giới thiệu làm ăn với ba người định khai sinh HarvardConnections, Mark đồng ý hẹn gặp. Tối ngày 30-11-2003, bốn người hẹn nhau tại một nhà ăn trong khuôn viên trường; Cameron, Tyler và Divya lần lượt trình bày ý tưởng của mình – xây dựng trang web HarvardConnections, lúc đầu giới hạn cho những ai có địa chỉ email harvard.edu tham gia và sau đó mở rộng ra các trường đại học ở Mỹ. Mark tỏ vẻ thích thú với ý tưởng này.

Ngay tối hôm đó, Mark gởi email cho ba người, nói rằng đã đọc những tài liệu ba người vừa gởi và vì cấu trúc trang web không phức tạp lắm nên hứa sẽ bàn tiếp sau khi phác thảo xong hình hài trang web ngay tối mai. Ngày hôm sau, Mark gởi thư tiếp cho nhóm HarvardConnections, cho biết đã soạn xong hai trang đầu, phần đăng ký làm thành viên, đang sửa lỗi và sẽ thông báo tiếp khi trang web hoạt động hoàn chỉnh.

Ngược lại với hai thư ban đầu này, chỉ mấy ngày sau đó, thư của Mark chuyển giọng, không còn sự hào hứng thực hiện ngay ý tưởng đã bàn mà tìm mọi lý do trì hoãn, như bận học, bận làm bài tập. Mọi nỗ lực liên lạc của nhóm với Mark không thành công và cuối cùng đến ngày 8-1-2004, Mark gởi thư cáo lỗi với các lý do bận rộn như từng viết và nói thêm là trang web chưa có đủ chức năng cần thiết để hấp dẫn người dùng.

Nghiên cứu các thư từ email trao đổi trong thời gian này, tờ Silicon Alley Insider kết luận đồng ý với cáo buộc của nhóm HarvardConnections là Mark Zuckerberg tìm cách trì hoãn việc phát triển mạng HarvardConnections để anh ta tự mình xây dựng một mạng tương tự và tung ra trước nhằm cạnh tranh. Tờ báo này cho biết các email nói trên thì đã được công khai từ lâu sau vụ kiện; kết luận của họ còn dựa vào những trao đổi tin nhắn (chat) giữa Mark với bạn bè người thân trong giai đoạn này. Như trao đổi giữa Mark và bạn đồng lớp, người sau này trở thành đồng sáng lập Facebook - Eduardo Saverin vào ngày 7-12-2003.

Họ chọn nhầm người – haha

Cựu tổng giám đốc PayPal thường được cho là nhà đầu tư đầu tiên bỏ tiền vào Facebook với khoản tiền 500.000 đô-la vào tháng 9-2004 nhưng thật ra người tài trợ cho Mark ngay từ đầu là Eduardo. Đây là một sinh viên giàu có hay ít nhất bề ngoài của anh ta cho mọi người cảm giác như thế. Eduardo đồng ý bỏ ra 15.000 đô-la để đổi lại 30% cổ phần trong công ty Facebook sẽ thành lập. Và những ngày đầu khởi nghiệp đó, hai bên trao đổi tin nhắn thường xuyên. Mark kể cho Eduardo chuyện ba người trong nhóm HarvardConnections mời tham gia như thế nào, xong rồi viết: “Nhưng họ đã chọn sai, haha. Họ chọn chính tớ để làm dự án này. Cho nên tớ sẽ trì hoãn để mạng này không thể làm xong cho đến khi cái dự án facebook ra đời”.

Như thế, tờ Silicon Alley Insider kết luận, trong vòng một tuần sau khi gặp nhóm HarvardConnections, Mark đã có ý tưởng tự mình phát triển một mạng xã hội tương tự và cũng đã đề ra kế hoạch ngăn cản đối thủ: trì hoãn việc lập trình dù được thuê thực hiện.

Một vài tuần sau đó, Mark lại họp với bộ ba Cameron, Tyler và Divya nhưng không phải ở nhà ăn mà là khu nội trú của Mark. Phòng của Mark có hành lang hẹp nối với các phòng khác. Khi Cameron và Tyler ngồi xuống trong phòng của Mark, Cameron thoáng thấy ngoài hành lang một tấm bảng trắng có ghi dòng chữ Harvard Connection, loại bảng mà nhà lập trình thường dùng để vẽ sơ đồ ý tưởng trang web. Nhưng khi Cameron đứng lên bước ra để nhìn cho rõ thì Mark yêu cầu Cameron không được vào hành lang.

Mark cũng thường xuyên trao đổi tin nhắn với một người bạn khác tên Adam D'Angelo. Cả hai học trường nội trú Phillips Exeter Academy và trong thời gian này, hai người hợp tác viết phần mềm nghe nhạc MP3 Synapse, có khả năng học sở thích của người dùng và đưa ra gợi ý thông minh. Tốt nghiệp trung học, Mark vào Harvard còn Adam vào trường Cal Tech nhưng hai người duy trì liên lạc thường xuyên. Sau này Adam vào làm Kỹ sư trưởng cho Facebook. Đọc những trao đổi qua chat giữa hai người, Silicon Alley Insider một lần nữa kết luận Mark song song làm hai dự án, Facebook của riêng mình và cố ý trì hoãn HarvardConnections để tiêu diệt đối thủ tiềm năng. Mặc dù Adam khuyên Mark nên từ chối thẳng nhóm HarvardConnections, Mark cho rằng nhóm này rất có tiềm năng, cả về lập trình và tài chính hỗ trợ nên ngại nếu cả hai ra đời cùng lúc thì tất cả đều thất bại.

Tớ sẽ chơi họ

Ngày 14-1-2004, Mark lại họp với nhóm HarvardConnections, có vẻ như lần gặp nhau cuối cùng. Lúc này Mark chưa làm xong Facebook nhưng đang nỗ lực hết sức, lấy tiền từ Eduardo để thuê máy chủ, đăng ký tên miền thefacebook.com… Vấn đề còn lại là có nên nói thẳng cho ba người kia chưa hay vẫn lần lữa chờ cho xong mạng Facebook. Mark đã nỏi ý kiến của một người bạn – bạn khuyên “không nên làm điều xấu cho ai cả”. Mark vẫn khẳng định: “Tớ sẽ chơi họ”. Lần gặp ngày 14-1, Mark vẫn chưa từ chối hẳn dự án HarvardConnections trong khi nhấn mạnh anh không có thời gian làm ngay. Mark cũng không tiết lộ gì về Facebook.

Ngày 4-2-2004, Mark công khai dự án Facebook, lúc đó có địa chỉ thefacebook.com; ngày 10-2-2004, Cameron gởi thư cho Mark, cáo buộc anh vi phạm hợp đồng và ăn cắp ý tưởng. Cuối tháng 5-2004, sau khi làm việc với hai nhà lập trình mới, nhóm HarvardConnections cũng cho ra đời mạng ConnectU, kết nối 15 trường với nhau nhưng không đạt được bất kỳ thành công nào.

Thực tế

Thực tế thì sau khi Mark khai sinh Facebook, mạng xã hội này đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng trong giới sinh viên. Hè năm 2004, Mark bỏ học, chuyển sang California để điều hành Facebook toàn thời gian. Đến tháng 8-2005, mạng xã hội chính thức chuyển địa chỉ từ thefacebook.com sang facebook.com sau khi mua lại địa chỉ này với giá 200.000 đô-la. Mọi chuyện sau đó về sự phát triển kỳ diệu của Facebook thì ai cũng đã biết. Tháng 10-2007, Microsoft cho biết họ đã mua 1,6% cổ phần Facebook với giá 240 triệu đô-la, tức tính ra tổng giá trị của Facebook là chừng 15 tỷ đô-la Mỹ. Cho đến nay Mark vẫn chưa bán Facebook cho ai và cũng chưa chịu đưa Facebook niêm yết trên thị trường chứng khoán. Thông tin mới nhất cho rằng doanh thu hàng năm của Facebook có thể lên đến 1 tỷ đô-la nhờ quảng cáo.

Về vụ kiện tụng chung quanh những ngày đầu ra đời Facebook, tờ Silicon Alley Insider cho rằng không có bằng chứng giấy trắng mực đen nào về hợp đồng hợp tác giữa Mark Zuckerberg và nhóm HarvardConnections. Những ràng buộc nếu có cũng chỉ ở dạng email hay chat mà tòa án từng kết luận chỉ là “tán gẫu trong khu nội trú”. Cùng lúc với việc tiếp cận ý tưởng của nhóm HarvardConnections, Mark cũng đã thai nghén ý tưởng cho mạng xã hội Facebook, dù hướng đến cùng một đối tượng nhưng cách triển khai có nhiều khác biệt. Tuy nhiên, Mark đã cố ý trì hoãn việc thực hiện mạng HarvardConnections với ý đồ cạnh tranh. Vì thế Silicon Alley Insider kết luận khoản tiền bồi thường 65 triệu đô-la mà Facebook trả cho ba người Cameron, Tyler và Divya là xứng đáng, thậm chí còn quá hào phóng vì thời gian diễn ra tranh cãi này chỉ kéo dài trong khoảng 2 tháng trong khi Mark đã mất đến 6 năm mới xây dựng Facebook được như ngày nay.

Tuy vậy, Silicon Alley Insider cũng chê trách Mark đã sử dụng những chiêu thức không hay ho gì khi sử dụng thông tin truy cập Facebook để xâm nhập tài khoản của các phóng viên tờ báo sinh viên của trường Harvard khi họ đang điều tra vụ kiện nói trên. Nhưng đây là một câu chuyện khác, sẽ được lược thuật ở một dịp khác.

Thứ Tư, 7 tháng 4, 2010

Nhiễu thông tin

Nhiễu thông tin

Một khi xảy ra tình trạng nhiễu thông tin, việc trước tiên cần làm là xem lại nguồn tin gốc.

Cuối tuần trước Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho đăng tải trên website của mình tin “Dừng cung cấp thông tin liên quan khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu”. Nội dung tin cho biết, ngày 30-3-2010, NHNN có văn bản gởi các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đề nghị dừng cung cấp thông tin liên quan khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.

Ngay sau đó, một số trang tin ở nước ngoài bình luận theo hướng NHNN từ chối nhận thông tin với ý muốn che giấu thông tin, rằng NHNN không muốn nhận những dự báo gây nhiễu như một dự báo của một ngân hàng nước ngoài về việc lãi suất cơ bản ắt phải tăng trong thời gian tới…

Làm gì có chuyện đó! Nguyên do là vào tháng 9-2008, NHNN có đề nghị các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cung cấp các thông tin về diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới. Tần suất cung cấp thông tin là trước 11g30 thứ Sáu hằng tuần, bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt.

Đây là một gánh nặng sự vụ hành chính nên khi tình hình kinh tế thế giới ổn định, NHNN ắt phải dừng yêu cầu nói trên mà nghe đâu các ngân hàng nước ngoài đã thực hiện tốt.

Còn chuyện các ngân hàng thường có các báo cáo phân tích, dự báo về tình hình kinh tế Việt Nam là do họ thực hiện cho khách hàng của họ, không liên quan gì đến yêu cầu nói trên. NHNN có hay không có yêu cầu, họ vẫn sẽ tiếp tục cung cấp thông tin cho khách hàng, chủ yếu là các quỹ đầu tư. Chuyện các báo cáo này được tung ra bên ngoài là chuyện khác nữa.

Rõ ràng một chủ trương bình thường nhưng thông tin không khéo hóa ra phản tác dụng, gây nhiễu thông tin.

* * *

Một thông tin khác mới nhìn qua, có vẻ như bị nhiễu nhưng thật ra là do chưa làm đúng nguyên tắc. Cuối tuần trước, các báo đưa tin Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân thôi kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo và đã bàn giao công việc lãnh đạo bộ cho Thứ trưởng thường trực Phạm Vũ Luận và các thứ trưởng khác.

Sau đó cũng có báo đăng tin, rằng Văn phòng Chính phủ cho biết họ chưa nhận được thông tin chính thức về việc Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục-Đào tạo.

Theo nguyên tắc, Quốc hội là nơi phê chuẩn việc bổ nhiệm hay miễn nhiệm chức danh bộ trưởng theo đề nghị của Thủ tướng. Khi nào Quốc hội chưa họp, chưa bỏ phiếu thì ông Nhân vẫn là Bộ trưởng Bộ Giáo dục-Đào tạo, phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về mọi mặt cho nền giáo dục nước nhà. Chẳng hạn, nếu trong kỳ họp sắp tới, Quốc hội bàn đến báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đối với giáo dục đại học mà Ủy ban thường vụ Quốc hội vừa đưa ra lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu giáo dục thì ông Nhân phải ra giải trình với tư cách là bộ trưởng. Việc phân công cho các thứ trưởng, kể cả Thứ trưởng thường trực Phạm Vũ Luận chỉ là công việc nội bộ, tạm thời, không thể mang tính chính thức.

* * *

Chuyện nhiễu thông tin sau cùng được đề cập ở đây liên quan đến “dự án Gởi tới mai sau”. Đầu tiên là phản ứng không đồng tình của nhiều nhà văn hóa về dự án lựa chọn 1.000 vật phẩm tiêu biểu có giá trị đặc trưng cho mỗi địa phương và cả nước, bỏ vào trong thiết bị lưu giữ, chôn xuống lòng đất để gửi tới các thế hệ mai sau. Tuần trước, ông Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy Hà Nội khẳng định không thực hiện dự án này mà ông cho chỉ là ý tưởng của cá nhân sau khi phê bình Sở Văn hóa-Du lịch-Thể thao Hà Nội triển khai dự án khi chưa có sự phê duyệt của thành phố.

Thế nhưng ban tổ chức dự án cãi lại, họ thực hiện dự án theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, cơ sở pháp lý của dự án là các quyết định của Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng - Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long ký phê duyệt Đề cương các hoạt động tiến tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội và của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký phê duyệt Chương trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội năm 2010.

Cái này thì thật sự là nhiễu thông tin. Ở đây chúng ta không bàn đến việc dự án “Gởi tới mai sau” có ý nghĩa hay chỉ là chuyện vô bổ mà chỉ bàn đến khía cạnh phát ra thông tin từ chính quyền. Nếu dự án chính thức nằm trong chương trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội thì chính quyền Hà Nội phải biết chứ không thể cho đó là ý tưởng cá nhân hay dự án chưa có sự phê duyệt. Ngược lại, ban tổ chức dự án nếu cho rằng quy trình thực hiện và đề cương dự án đã được phê duyệt từ bốn năm trước thì phải chứng minh bằng giấy tờ và phải cho biết vì sao bốn năm qua không triển khai gì cả. Một thành phần nhỏ trong chương trình kỷ niệm mà đã nhiễu thông tin như vậy thì thật khó lòng yên tâm khi triển khai hàng chục dự án lớn khác.

Thứ Bảy, 27 tháng 3, 2010

Cuộc đua xuống đáy

Cuộc đua xuống đáy

Ai mà chẳng thích đọc những gì liên quan đến tình dục. Đó là chuyện bản năng, không tránh được. Nhưng nếu cứ lấy tình dục làm vũ khí cạnh tranh như hiện nay giữa các tờ báo mạng, đấy là cuộc đua kéo nhau xuống đáy, không có lối thoát.

Có người hỏi tôi sự khác nhau giữa quản trị doanh nghiệp (corporate governance) với điều hành công ty (company management), hai khái niệm thường bị lẫn lộn, tôi chợt nghĩ đến chuyện làm báo như một ví dụ dễ hiểu.

Cứ giả dụ tờ báo là một doanh nghiệp và tòa soạn được giao điều hành công ty này. Nếu chỉ lấy các chỉ tiêu như bán cho được báo, thu hút nhiều độc giả vào đọc và bán cho được nhiều quảng cáo, tạo được doanh thu cao, việc điều hành tờ báo sẽ rất đơn giản. Đăng càng nhiều chuyện tình dục rồi tin bài nào cũng rút tít cho giật gân lên, chú tâm khai thác chuyện xì-căng-đan ở các ngôi sao giải trí, lượng phát hành hay lượng người vào đọc sẽ tăng vùn vụt. Lượng phát hành hay lượng người đọc cao sẽ kéo theo quảng cáo tăng. Thậm chí ban điều hành lúc đó cứ đăng tin bài mang tính quảng cáo cho bất kỳ ai trả tiền thì doanh thu làm sao không tăng. Đấy là điều hành công ty.

Nhưng tờ báo còn liên quan đến nhiều thành phần khác (tiếng Anh trong quản trị kinh doanh gọi là stakeholders) như độc giả, chính quyền, người lớn, trẻ em, nhà giáo dục… đủ cả. Họ đều có quyền định hướng cho tờ báo sao cho nó phục vụ lợi ích chung cho tất cả mọi người chớ không phải riêng lợi ích vật chất của người làm báo. Vậy nên mới có chuyện quản trị doanh nghiệp. Chuyện quản trị này sẽ dựa vào những chuẩn mực xã hội, quy định của luật pháp, quy ước đạo đức nghề nghiệp của nhà báo hay tôn chỉ mục đích của tờ báo đặt ra để ràng buộc lẫn nhau và định hướng đi cho tờ báo.

Đó là nói chuyện lý thuyết còn thực tế đơn giản hơn nhiều. Làm báo ai mà không xuất phát từ một hoài bão làm gì đó cho cuộc sống ngày càng tốt hơn, ai mà không có ước muốn tờ báo của mình có những bài viết sắc sảo. Cạnh tranh bằng những chiêu thức như khai thác chuyện tình dục, hình ảnh mát mẻ hay cố ý gây sốc là chuyện “chẳng đặng đừng”, chắc người chủ xướng hay người viết ít nhiều đều cảm thấy xấu hổ.

Nhưng nếu ai cũng lấy cái khó của thị trường hiện nay để biện minh rằng, thôi thì cố nuôi sống tờ báo cái đã, sau đó sẽ giảm dần liều lượng “lá cải”, ai cũng phân bua nếu cứ viết cho đàng hoàng vào thì không ai chịu vô đọc cả, ai cũng chỉ “tươi mát” hơn đối thủ cạnh tranh “một chút xíu thôi”… đấy chính là cuộc đua xuống đáy!

Nếu để ý, các bạn sẽ thấy liều lượng “lá cải” trên các báo mạng ngày càng tăng – đấy là do cạnh tranh “thêm một chút” cộng với “thêm một chút” – hàng ngày, hàng giờ. Rồi như con bạc tháu cáy, sự xấu hổ nói ở trên sẽ biến mất, thay vào đó là sự hùng hổ ganh đua xem ai “gây sốc” nhiều hơn ai.

Hiệu ứng thì ai cũng đã rõ. Uy tín báo chí đang ngày càng xuống thấp. Độc giả cũng tò mò vô đọc (tôi cũng đọc) nhưng vừa đọc vừa chửi sao báo chí ngày càng xuống cấp. Điều đáng ngại nhất là nghề nghiệp làm báo sẽ theo đó lụi tàn dần – đầu tiên là lẫn tránh các đề tài khó, xong rồi tự dễ dãi với các bài viết vô thưởng vô phạt và cùng nhau cạnh tranh theo lối ai “lá cải” hơn ai.

Lối thoát cho lối cạnh tranh xuống đáy này có còn đó không? Theo tôi là vẫn còn. Stakeholder quan trọng nhất là nhà nước thì hình như phó mặc miễn sao các báo đừng nhảy vô các đề tài nhạy cảm thì không sao. Nhưng các stakeholders khác đều có vai trò quan trọng: người đọc phải biết tẩy chay, giới quảng cáo phải biết từ chối quảng cáo, đồng nghiệp phải cùng nhau lên tiếng để giữ uy tín chung cho làng báo. Hơn ai hết, nếu những người đang chủ trương “lá cải hóa” ngồi lại với nhau, đặt ra những giới hạn không thể vượt qua thì tình hình sẽ cải thiện lên nhiều. Như đã nói ở đầu, đây không phải là vấn đề đạo đức (vì tôi thừa nhận ngay từ đầu là mình cũng tò mò thích đọc như bao người khác) - đây là vấn đề tương lai của báo chí khi cạnh tranh sai đường.

Thứ Sáu, 26 tháng 3, 2010

Cuộc chiến tiền tệ Mỹ - Trung

Cuộc chiến tiền tệ Mỹ-Trung

Trước những tranh cãi chung quanh việc Mỹ muốn Trung Quốc nâng giá đồng nhân dân tệ, người ta tự hỏi vì sao một nước có thể can thiệp vào việc định giá đồng tiền của một nước khác hay làm như thế nào để định giá đồng tiền của nước mình sao cho có lợi nhất cho nền kinh tế.

Lập luận của Mỹ

Trong giao dịch ngoại thương, tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền chưa hẳn phản ánh chính xác sức mua của chúng. Lấy ví dụ chuyện hớt tóc, giá một lần hớt tóc ở Việt Nam chỉ vào khoảng 20.000 đồng trong khi ở Mỹ mất khoảng 10 đô-la. Nếu giả dụ toàn bộ giao thương giữa Mỹ và Việt Nam chỉ xoay quanh chuyện hớt tóc và giả dụ người ta có quyền chọn lựa bất kỳ nơi nào để hớt tóc mà không phải lo các chi phí khác, chắn chắn dân Mỹ sẽ đổ sang Việt Nam, lấy chừng hơn 1 đô-la, đổi sang tiền Việt để được hớt tóc với giá quá hời. Cũng chắc chắn trong tình hình đó, giới hớt tóc ở Mỹ sẽ phản đối dữ dội, đòi đồng nghiệp ở Việt Nam nâng giá hớt tóc lên 200.000 đồng hay nếu không, đòi Việt Nam phải nâng giá tiền đồng lên để đạt tỷ giá chừng 20.000 đồng ăn 1 đô-la Mỹ.

Trong quá khứ chuyện tương tự đã từng xảy ra. Năm 1985, năm nước Pháp, Đức, Nhật, Anh, Mỹ đồng ý định giá lại đồng đô-la Mỹ trong tương quan với đồng yên Nhật và đồng mark Đức vì lúc đó hàng hóa của Nhật đang tràn ngập thị trường nhờ giá rẻ và Mỹ đang chịu cảnh thâm hụt mậu dịch lớn với nước này. Ngay lập tức đồng yên lên giá mạnh, từ 239 yên/1 đô-la vào năm 1985 lên 128 yên/1 đô-la vào năm 1988, một mức tăng gần gấp đôi.

Lịch sử đang được lập lại với Trung Quốc. Kể từ khi trở thành công xưởng của thế giới, hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc đã đem về cho nước này những khoản thặng dư mậu dịch khổng lồ. Bán hàng, lấy tiền đô-la về, lẽ ra nước này phải để cho giá trị đồng nội tệ tăng lên dần dần, theo quy luật của một cơ chế tỷ giá thả nổi nhưng họ lại neo chặt tỷ giá với đồng đô-la. Để làm được việc này, Trung Quốc phải mua vào ngày càng nhiều những khoản đô-la do ngoại thương đem về (làm sao họ làm được chuyện đó mà không gây ra lạm phát là một chuyện khác) và xem như gián tiếp phá giá đồng tiền của họ. Trong ngoại thương, ai cũng biết bên cạnh quy luật cung cầu, nếu hàng nước nào rẻ hơn sẽ bán chạy hơn. Rẻ hơn ở đây chính là việc định giá đồng tiền sao cho thấp hơn của đối thủ cạnh tranh.

Thật ra, vấn đề này đã được nêu lên từ lâu và trước khi khủng hoảng tài chính xảy ra, Trung Quốc đã từng chịu nhiều áp lực từ Mỹ và một số nước khác phải để cho đồng nhân dân tệ lên giá. Năm 2005 Trung Quốc chính thức gỡ bỏ việc neo đồng nội tệ với đồng đô-la, để cho đồng tiền nước mình lên giá dần dần từ mốc 8,35 lên 6,8 nhân dân tệ ăn 1 đô-la vào tháng 7-2008. Khủng hoảng tài chính xảy ra, Trung Quốc ngưng việc định giá lại đồng tiền và các nước khác cũng ngưng gây sức ép.

Nay, những nhà kinh tế nổi tiếng như Paul Krugman lại chỉ trích chính sách theo đuổi một đồng tiền yếu của Trung Quốc. Theo tính toán của ông, chính sách này đang làm cho 1,4 triệu người Mỹ thất nghiệp vì công nghiệp sản xuất ở Mỹ không cạnh tranh nổi hàng hóa nhập từ Trung Quốc và làm cho quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu bị chậm lại đáng kể. Nhìn rộng ra, khoản ngoại tệ khổng lồ chừng 2.400 tỷ đô-la mà Trung Quốc đang nắm giữ làm méo mó lãi suất ở những nước như Mỹ, có khả năng tạo ra những bong bóng tài sản mới, là nguyên nhân của chính cuộc khủng hoảng vừa qua. Nếu không giải quyết sự mất cân đối đó thì chính sách đồng nhân dân tệ yếu có thể khơi ngòi cho một cuộc khủng hoảng khác. Hiện nay mỗi tháng Trung Quốc tích lũy thêm được 30 tỷ đô-la vào dự trữ ngoại tệ của mình còn IMF dự báo thặng dư thương mại nước này trong năm 2010 sẽ lên đến 450 tỷ đô-la, gấp 10 lần năm 2003.

Lập luận của Trung Quốc

Dĩ nhiên Trung Quốc thẳng thừng bác bỏ những cáo buộc cho rằng chính sách tiền tệ của họ đang gây khó khăn cho kinh tế thế giới. Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo khẳng định đồng nhân dân tệ không được định giá thấp và phản đối chuyện một nước lại dùng những biện pháp ép buộc nước khác nâng giá đồng tiền. Mặt khác, ông Ôn Gia Bảo cũng cho rằng việc cải cách chế độ tỷ giá của Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục, cho thấy Trung Quốc cũng đang chịu sức ép phải lường trước để tránh những biện pháp bảo hộ của các nước đối với hàng hóa từ Trung Quốc. Lý lẽ của Trung Quốc đưa ra còn bao gồm số liệu cho thấy đến 60% hàng xuất khẩu từ nước này là do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chứ không phải của doanh nghiệp Trung Quốc – nâng giá nhân dân tệ, làm hàng hóa xuất từ Trung Quốc đắt đỏ hơn, sẽ có hại trước tiên cho chính các doanh nghiệp này.

Có lẽ Trung Quốc nhìn vào bài học Nhật Bản ngày xưa – ngay sau khi nâng giá đồng yên, giá bất động sản và chứng khoán nước này tăng vọt. Đồng yên càng lên giá, việc đầu cơ vào các sản phẩm tài chính càng có lãi lớn. Tất cả dẫn đến hiện tượng bong bóng tài sản ở Nhật mà sau khi vỡ tung đã gây trì trệ cho nền kinh tế nước này cho tận đến hôm nay.

Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem hay không xem Trung Quốc là “nước thao túng tiền tệ”. Dưới sức ép của dư luận trong nước, nếu Mỹ đưa ra một phán quyết như thế - khả năng xảy ra chiến tranh thương mại giữa hai nước sẽ cao hơn và có hại cho cả đôi bên. Xem ra, đây sẽ là giai đoạn “đấu võ bằng miệng” ồn ào nhất giữa hai nước – với Trung Quốc luôn luôn cho rằng Mỹ “chính trị hóa” chuyện tỷ giá. Còn các nghị sĩ Mỹ thì đã đưa ra dự luật chuẩn bị cho việc trừng phạt hàng hóa nhập khẩu Trung Quốc.

Có hay không một giải pháp dung hòa?

Khi bàn đến giải pháp, Paul Krugman đưa ra những biện pháp cứng rắn nhất. Ông đề nghị ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ phải tuyên bố Trung Quốc là nước thao túng tỷ giá nhằm tìm lợi thế cạnh tranh không công bằng trong giao thương quốc tế. Sau đó, chính phủ Mỹ sẽ phải có biện pháp mạnh. Năm 1971, Mỹ đã có lúc đánh 10% thuế phụ thu lên hàng nhập khẩu, mấy tháng sau mới bỏ khi các nước như Đức và Nhật phải nâng giá đồng tiền của họ lên. Lần này Krugman đòi áp dụng biện pháp tương tự nhưng với mức thuế cao hơn, đến 25%!

Ở đây cần lưu ý rất nhiều ý kiến đồng tình đồng nhân dân tệ đang bị định giá thấp hơn thực tế từ 20%-40%, kể cả IMF hay WB nhưng giải pháp đưa ra thì khác nhau xa. Thầy cũ của Krugman, GS Jagdish Bhagwati cho rằng tỷ giá như các cây kim trên chiếc đồng hồ, ý nói vấn đề nằm ở cơ chế bên dưới chứ không phải biểu hiện bên ngoài. Giả thử không tồn tại hàng hóa của Trung Quốc thì hàng hóa của Nhật, Ấn Độ, Brazil… sẽ tràn vào thị trường Mỹ và lúc đó Mỹ cũng sẽ có vấn đề tỷ giá với các nước này. Ông cho rằng không sớm thì muộn, không cần ai ép, Trung Quốc cũng sẽ phải chi tiêu thặng dư mậu dịch vào các công trình hạ tầng trong nước để nâng cao mức sống cho người dân.

Ông Romano Prodi, cựu chủ tịch Ủy ban châu Âu có vẻ hiểu tâm lý Trung Quốc hơn cả khi cho rằng phương Tây không nên “dạy” Trung Quốc phải làm gì với đồng tiền nước họ vì họ sẽ tự ái mà không làm theo. Tờ the Economist cũng có nhận định tương tự khi đưa ra lời khuyên cứ để tự Trung Quốc nhận ra nhu cầu của chính họ phải nâng giá đồng tiền. Mặc dù các quan chức Trung Quốc luôn nói nâng giá đồng tiền nước họ sẽ làm cho nhiều doanh nghiệp xuất khẩu phá sản (biên lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp này chỉ còn dưới 2%), bản thân họ cũng hiểu nâng giá đồng tiền sẽ trực tiếp nâng sức mua của người dân. Về lâu về dài, Trung Quốc phải cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng giảm bớt phụ thuộc vào xuất khẩu để tránh những cơn biến động từ bên ngoài. Nâng giá đồng tiền là cột trụ của việc tái cơ cấu này.

Nhiều nhà phân tích cho rằng quá trình phát triển của Trung Quốc về thực chất là quá trình tận dụng lao động giá rẻ trong nước để ôm vào một lượng đô-la khổng lồ và trở thành con tin của sự lên xuống thất thường của đồng đô-la. Nay để cho đồng tiền lên giá, tức là gián tiếp cải thiện sức mua của giới công nhân, sẽ là biện pháp “kích cầu” đúng nghĩa và dài hạn nhất. Một đồng nhân dân tệ mạnh hơn sẽ giúp kiểm soát lạm phát, giảm bớt đầu tư lãng phí.

Bởi vậy có thể dự đoán Trung Quốc sẽ quay trở lại chính sách nâng giá đồng nhân dân tệ, không phải ngay bây giờ nhưng theo một lộ trình dần dần như những năm trước. Từ năm 2005 đến 2008, đồng nhân dân tệ đã lên giá đến 21%. Vấn đề là làm sao để Trung Quốc thấy chuyện đồng nhân dân tệ của họ là chuyện của thế giới chứ không phải là sự đối đầu chỉ riêng giữa Mỹ và Trung Quốc. Và quan trọng hơn hết, làm sao để Trung Quốc không bị “mất mặt” trước áp lực khá lộ liễu của Mỹ.

Thứ Tư, 24 tháng 3, 2010

Chuẩn mực và luật pháp

Chuẩn mực và luật pháp

Có nhiều vấn đề xã hội được nhìn nhận từ dưới nhiều góc độ, tùy thuộc vào chuẩn mực khác nhau của người quan sát. Đây là điều đáng cổ vũ vì nó tạo ra sự đa dạng trong ý kiến, xây dựng được một môi trường tranh luận lành mạnh, để từ đó hình thành nên những chuẩn mực mới được đa số công nhận.

Tuy nhiên, dưới góc độ quản lý nhà nước, người công chức luôn phải dựa vào luật pháp và những quy định hiện hành làm cơ sở cho mọi ứng xử của mình để tránh sự tùy tiện của cá nhân. Nếu quy định chưa phù hợp với thực tế đã thay đổi, phải thay đổi quy định trước khi thay đổi ứng xử.

Lấy ví dụ chuyện Sở Giao thông vận tải TPHCM đề xuất dừng cấp giấy phép kinh doanh các loại hình dịch vụ, thương mại tập trung đông người trên 153 đoạn, tuyến đường ở TPHCM. Đứng ở góc độ người dân đang bức xúc vì tình trạng kẹt xe, nhất là ở những đoạn đường có các trung tâm ngoại ngữ, mỗi lần tan học, xe phụ huynh đón con đứng tràn ra lòng đường, đây là đề xuất hợp lý. Ngược lại, với những ai dự định kinh doanh ở những nơi này, họ cũng sẽ bức xúc vì mất cơ hội làm ăn. Chính quyền quận ở những địa điểm trong danh mục sẽ bị “dằn xé” giữa hai “lợi ích”: cấm thì sẽ giải quyết vấn nạn giao thông trên địa bàn nhưng sẽ dẫn đến thất thu nhiều nguồn thuế.

Nhưng áp dụng nguyên tắc làm gì cũng phải dựa vào luật pháp, người ta sẽ thấy đề xuất này có nhiều điểm bất ổn. Không thể dựa vào các quy định hiện hành để cấm kinh doanh chỉ vì lý do giải quyết ùn tắc giao thông. Nếu muốn, Sở phải phối hợp với nhiều nơi khác để biến ý muốn thành điều kiện kinh doanh do nơi có thẩm quyền ban hành, chẳng hạn, trung tâm ngoại ngữ phải có sân để xe chờ của phụ huynh (!) hay siêu thị phải có đủ chỗ giữ xe cho một lượng khách nhất định. Lúc đó, điều kiện kinh doanh sẽ trở thành lệnh cấm gián tiếp, đúng thẩm quyền luật định.

Hay một chuyện khác, khi báo chí nêu việc phôi bằng tốt nghiệp của Bộ Giáo dục-Đào tạo in ấn thiếu dòng chữ “Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc”, Bộ GD-ĐT đã trả lời, mà mới nghe qua rất hợp lý, rằng bằng tốt nghiệp không phải là văn bản quy phạm pháp luật hay công văn hành chính nên không thể hiện thể thức trình bày theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật hoặc công văn hành chính.

Phải nhìn nhận câu chuyện này như thế nào? Ở góc độ hội nhập, nhiều người sẽ đồng tình, ghi tên nước là đủ và đúng chuẩn mực quốc tế. Dưới góc độ quen thuộc, nhiều người sẽ thấy ghi thiếu như vậy có gì đó không ổn, làm cho tấm bằng mất giá trị…

Nhưng cơ quan hành chính thì luôn phải dựa vào quy định hiện hành như đã nói ở trên. Hình thức trình bày văn bằng đã được quy định chi tiết tại Quyết định số 33/2007/QĐ-BGDĐT, ngày 20-6-2007, ban hành quy chế văn bằng, chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân. Điều 9 của quy chế này ghi rõ: Nội dung của các văn bằng, chứng chỉ gồm: 1/ Tiêu đề: CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM/Độc lập-Tự do-Hạnh phúc…

Đã quy định rõ ràng như thế (kể cả cách viết hoa, viết thường) thì người soạn mẫu bằng phải tuân thủ, không thể biện minh bằng bất kỳ lý do gì. Còn nếu muốn sửa cách trình bày, trước tiên phải sửa lại quy chế chứ không thể tùy tiện được. Đáng lưu ý là nhiều cơ quan nhà nước cũng làm theo cách này mỗi khi muốn điều chỉnh quy định theo ý muốn nhưng lại dùng văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn để “điều chỉnh” một văn bản có giá trị pháp lý cao hơn, làm cho hệ thống quy định của chúng ta rối tung lên và cồng kềnh không cần thiết.

Nhà nước pháp quyền bắt đầu từ những chuyện cụ thể như thế chứ không phải bằng các khái niệm cao siêu hay phức tạp nào khác.

Bài đăng phổ biến