Thứ Ba, 22 tháng 2, 2011

Đủ loại lãi suất

Đủ loại lãi suất

Cuối cùng Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ đã bày tỏ thái độ dứt khoát, không chịu chìu theo những ý kiến khuyên ngược đời “giảm mạnh lãi suất để chống lạm phát”. Thông điệp chính thức đã được phát ra: không đặt mục tiêu giảm lãi suất trong ngắn hạn nữa. Thay vào đó là áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm đầu tư công, giảm chi ngân sách, để tập trung giảm lạm phát là ưu tiên hàng đầu.

Tuy nhiên, người bình thường như chúng ta nghe các cụm từ như “lãi suất tái cấp vốn”, “lãi suất tái chiết khấu” chắc cũng lùng bùng lỗ tai, không hiểu chúng là gì, chúng tác động đến túi tiền của chúng ta như thế nào.

Các quan chức khi trả lời cho giới báo chí, không chịu dùng những từ ngữ dễ hiểu để chuyển tải thông điệp cần chuyển tải đến người dân vì họ quen với các khái niệm này rồi cũng như đã quen nhìn các vấn đề dưới góc độ người quản lý. Giới báo chí nghe sao viết vậy chứ cũng ít khi chịu khó viết tin bài từ góc độ người dân tiếp cận thông tin để diễn giải sao cho dễ hiểu.

Thôi chúng ta đành tự tìm hiểu với nhau vậy. Quan trọng là để xem tác động của các chính sách sắp tới sẽ như thế nào.

Để chống lạm phát, cần phải rút bớt tiền trong lưu thông về. Muốn rút tiền về thì phải tăng lãi suất. Nhưng lãi suất có nhiều loại.

Cách đây một tuần Ngân hàng Nhà nước tuyên bố nâng “lãi suất tái cấp vốn” lên 11% từ mức cũ là 9%.

Nghe cụm từ “tái cấp vốn”, ắt chúng ta sẽ nghĩ đến chuyện trước đó cấp vốn rồi, bây giờ vì sao đó nên cấp vốn lại. Thêm nữa, nghe “lãi suất tái cấp vốn” áp dụng cho giới ngân hàng, chắc ai cũng tin cách hiểu trên là đúng. Thật ra không phải.

Ngân hàng A cho doanh nghiệp vay 1 tỷ đồng để kinh doanh, chưa đến hạn nhưng ngân hàng A gặp khó khăn trong thanh khoản thì có thể lấy bộ hồ sơ cho vay nói trên đến Ngân hàng Nhà nước vay tiền, thế chấp bằng bộ hồ sơ này. Lãi suất phải trả cho Ngân hàng Nhà nước là “lãi suất tái cấp vốn” (refinancing rate).

Cũng vay tương tự như vậy nhưng đem trái phiếu chính phủ đã mua trước đó, thế chấp để vay vốn Ngân hàng Nhà nước thì phải áp dụng “lãi suất tái chiết khấu”. Lãi suất tái chiết khấu này vẫn giữ nguyên là 7%.

TS Phạm Thế Anh đã bình luận trên tờ SGTT rằng “quyết định nâng lãi suất tái cấp vốn, trong khi giữ nguyên lãi suất tái chiết khấu, sẽ tiếp tục duy trì cầu về trái phiếu chính phủ. Và thực chất, nó chỉ hạn chế tín dụng đối với khu vực tư nhân chứ không hạn chế tín dụng đối với chính phủ, hay đằng sau đó là các tập đoàn kinh tế lớn”.

Như thế, có lẽ chúng ta đã hiểu vì sao Ngân hàng Nhà nước nâng “lãi suất tái cấp vốn” trong khi vẫn giữ nguyên “lãi suất tái chiết khấu”. Ngoài ra, dư luận hiện chưa phải đã đồng tình chuyện tăng lãi suất nên Ngân hàng Nhà nước buộc phải thận trọng tăng lãi suất từ từ, tăng loại lãi suất ít có tác dụng lên thị trường trước, các loại khác tính sau.

Hôm qua, Ngân hàng Nhà nước lại tăng lãi suất chào mua các loại giấy tờ có giá (như trái phiếu chính phủ, chẳng hạn) trên thị trường mở lên 12% cho loại có kỳ hạn 7 ngày (báo chí nước ngoài gọi đây là lãi suất repo ngược, gọi tắt là lãi suất nghiệp vụ thị trường mở). Theo TS Lê Hồng Giang (trên blog của anh) thì đây chính là lãi suất chủ yếu để các ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ. Hai loại lãi suất trên (tái cấp vốn với tái chiết khấu) chỉ có chức năng trợ giúp thanh khoản cho các ngân hàng riêng lẻ.

Thế còn “lãi suất cơ bản”? Sao không thấy động chạm gì đến loại lãi suất chúng ta thường nghe nhắc đến trong những năm trước?

Về loại lãi suất này, tôi đã có viết trong bài “Lại chuyện lãi suất cơ bản”. Xin trích lại mấy đoạn có liên quan:

Nước nào cũng phải sử dụng một số công cụ để thực thi chính sách tiền tệ nhằm đạt được những mục tiêu nào đó, như kiềm chế lạm phát chẳng hạn. Lãi suất là một công cụ như thế bên cạnh công cụ tăng giảm dự trữ bắt buộc. Thông thường ngân hàng trung ương một nước tác động lên lãi suất bằng con đường gián tiếp, có nghĩa thông qua nghiệp vụ thị trường mở để tăng hay giảm tổng phương tiện thanh toán. Ví dụ, ngân hàng trung ương mua vào trái phiếu chính phủ, tức làm tăng tổng lượng tiền trong lưu thông thì lãi suất thị trường sẽ giảm. Cũng có thể tác động trực tiếp bằng cách tăng hay giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu – là những loại lãi suất ngân hàng trung ương ấn định trong quan hệ mua bán các loại giấy tờ có giá với ngân hàng thương mại.

Nói cách khác, lãi suất cơ bản như đang được định nghĩa (là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh) hoàn toàn không phải là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia đúng nghĩa như thông lệ quốc tế.

Chính vì thế mà thời gian vừa qua Ngân hàng Nhà nước đã giảm nhẹ tầm quan trọng của loại lãi suất này.

Thứ Tư, 16 tháng 2, 2011

Mọi đề xuất phải từ thực tế

Mọi đề xuất phải từ thực tế

Trong bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 1-2011 lên đến 1,74% so với tháng trước đó hay 12,17% so với cùng kỳ năm ngoái, đã có nhiều ý kiến từ các chuyên gia kinh tế đề xuất các biện pháp kiềm chế mức tăng giá cả.

Đáng chú ý là ý kiến của một “chuyên gia kinh tế cao cấp”: Ngân hàng Nhà nước nên chiết khấu cho ngân hàng thương mại vay với lãi suất 3 – 4%, thậm chí đề nghị Chính phủ cho doanh nghiệp vay với lãi suất 0%.

Cơ sở để chuyên gia này đưa ra kiến nghị này là bởi “trong nền kinh tế thiếu thanh khoản thì Ngân hàng Nhà nước là tổ chức có quyền phát hành tín dụng mà không cần huy động vốn từ nhân dân, không cần phải trả bất kỳ 1% tỷ lệ lãi suất nào cho ai và Ngân hàng Nhà nước có thể quyết định cho ngân hàng thương mại vay với lãi suất hợp lý theo quy định mới của luật ngân hàng”.

Nói tóm lại, chuyên gia này phản đối cách suy nghĩ “Mỗi khi chỉ số giá tiêu dùng tăng thì các nhà hoạch định chính sách thường cho là lạm phát và phản ứng bằng cách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát” nên đề nghị làm ngược lại: giảm lãi suất để hạ chỉ số giá tiêu dùng và việc giảm lãi suất như thế nằm trong tay Nhà nước.

Đến đây thì bất kỳ một sinh viên kinh tế nào cũng có thể phản bác lập luận trên bằng những quy luật kinh tế học sơ đẳng: Giá hàng hóa tăng vì có sự mất cân đối giữa lượng tiền và hàng hóa lưu thông trong nền kinh tế, nếu bơm thêm tiền ra thì giá cả càng tăng chứ làm sao giảm được. Bởi thế cho nên một trong những công cụ chủ yếu để kiểm soát lạm phát là lãi suất – các nước thường nâng lãi suất để ngăn chận lạm phát.

Tuy nhiên, đúng là trong thời gian gần đây, cũng có nhiều ý kiến tỏ ra nghi ngờ hiệu quả của việc nâng lãi suất nhằm chặn đà lạm phát, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế đang suy thoái, sản xuất chưa đạt mức cân bằng với nhu cầu, thất nghiệp còn cao. Họ lập luận lãi suất cao càng làm giảm lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường nên giá cả càng tăng.

Thế nhưng ý kiến loại này cũng chỉ tỏ ra hoài nghi về tác dụng của việc nâng lãi suất đối với lạm phát, tức là, chẳng hạn, họ cho rằng, tăng 1 điểm phần trăm lãi suất trong một năm chỉ làm lạm phát giảm 0,2%. Hơn nữa cái gọi là lãi suất cao được đề cập ở trên là lãi suất thật (lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát); nếu lãi suất danh nghĩa là 15% trong khi lạm phát lên đến 10% thì lãi suất thật (5%) không thể gọi là cao được.

Khi nói mọi đề xuất phải từ thực tế, tức là chúng ta phải xem thực trạng nền kinh tế Việt Nam đang ở đâu, từ đó mới có thể nhận định đúng đắn đề xuất nào là hợp lý, đề xuất nào sẽ làm tình hình xấu hơn.

Có phải hàng hóa trên thị trường đang khan hiếm, là tác nhân gây tăng giá không? Câu trả lời là không. Số liệu thống kê chính thức cho thấy GDP năm ngoái 6,78%, sản lượng lúa cả nước năm 2010 là 40 triệu tấn, tăng hơn 1 triệu tấn so với năm trước, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14%, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 24,5% (nếu loại trừ yếu tố giá thì cũng tăng đến 14%).

Ngược lại, chính việc tung tiền ra đầu tư tràn lan là tác nhân gây lạm phát hiện nay. Tổng vốn đầu tư của Việt Nam năm 2010 lên đến 41,9% GDP, tăng 17,1% so với năm trước. Và mặc dù lãi suất cao, tổng tín dụng cho nền kinh tế đến cuối năm 2010 vẫn tăng 29,81% so với cuối năm 2009, tổng phương tiện thanh toán tăng 25,3%.

Đúng là lãi suất cao như hiện nay đang gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp. Vấn đề là tìm một điểm cân bằng để việc đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát không quá đắt giá. Nếu doanh nghiệp khó khăn vì lãi suất cao thì người dân khó khăn gấp bội lần vì lạm phát. Người có thu nhập càng thấp thì khó khăn do lạm phát gây ra chịu sức khuếch tán càng lớn. Và như thế mọi nỗ lực xóa đói giảm nghèo trong nhiều năm qua rất có thể bị xóa bỏ trong một sớm một chiều.

Nói như vị chuyên gia kinh tế nêu trên là đứng trên lợi ích của giới kinh doanh mà không đếm xỉa đến sự an nguy của nền kinh tế và sự bảo toàn tài sản của người dân trong dài hạn. Làm gì có chuyện Ngân hàng Nhà nước có quyền phát hành tín dụng mà “không cần phải trả bất kỳ 1% tỷ lệ lãi suất nào cho ai”. Ngân hàng Nhà nước muốn cho ngân hàng thương mại vay với lãi suất 3-4% như chuyên gia này đề nghị thì phải mua lại trái phiếu chính phủ từ ngân hàng thương mại. Khi lãi suất trái phiếu khoảng 10%, nếu cho ngân hàng vay với lãi suất thấp như thế, mọi lợi nhuận sẽ rơi vào tay ngân hàng như từng xảy ra trong năm 2010. Nếu chính phủ cho vay với lãi suất 0% như chuyên gia này đề nghị, ngay lập tức sẽ có làn sóng đầu tư bất chấp hiệu quả, bong bóng đủ loại tài sản như nhà đất, cổ phiếu sẽ phình to và nổ tung bất kỳ lúc nào. Đó chính là mối nguy tiềm ẩn của những kiến nghị không đếm xỉa gì đến thực tế.

Thứ Hai, 14 tháng 2, 2011

Hỏi thêm vài câu nữa

Hỏi thêm vài câu nữa

VnExpress hôm nay có bài phỏng vấn ông Lê Đức Thúy với cái tít rất ấn tượng: Ông Lê Đức Thúy: 'Tỷ giá không tác động mạnh tới lạm phát'.

Ông Thúy là Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia nên phát biểu của ông thuộc loại có thẩm quyền, ông nói tỷ giá không tác động mạnh đến lạm phát thì chúng ta phải tin thôi. Với lại VnExpress cũng ghi giải thích của ông khá đầy đủ và rõ ràng: “Tác động trong lần này không nhiều bởi mức tỷ giá được điều chỉnh thực chất đã tồn tại cách đây khá lâu rồi. Và mức tỷ giá đó đã được tính vào các yếu tố kinh doanh nên nó không gây đột biến gì về lạm phát. Sự điều chỉnh này chỉ là thừa nhận một thực tế của tỷ giá đã tồn tại trước đây mấy tháng”.

Nhưng tiếc là để liền cái mạch đó lẽ ra phóng viên hỏi thêm vài câu nữa thì hay biết mấy.

Ví dụ, hỏi ông Thúy ngay sau khi ông giải thích như trên, rằng hóa ra bấy lâu nay tỷ giá chính thức mà Ngân hàng Nhà nước công bố chỉ là hình thức hay sao? Hóa ra hiện tượng hai giá trong hệ thống ngân hàng là có thật? Vậy cái tỷ giá chính thức đó để làm gì?

Sau đó hỏi thêm, không lẽ toàn bộ giao dịch ngoại tệ trong thời gian qua tính theo giá chợ đen? Trong khi sổ sách chính thức vẫn ghi theo tỷ giá liên ngân hàng, thế thì hàng đống tiền chênh lệch vào túi ai? Không lẽ không có ai mua được đô-la theo tỷ giá chính thức? Họ được lợi như thế nào? Vì sao họ được lợi như thế? Không lẽ những tuyên bố trước đây là có đủ ngoại tệ (chắc chắn theo nghĩa đúng theo tỷ giá chính thức) cho các nhu cầu nhập khẩu thiết yếu là không chính xác?

Còn nếu phóng viên có chuẩn bị kỹ, có thể hỏi, dù sao khi tính thuế nhập khẩu thì lúc nào cũng tính theo tỷ giá chính thức. Nay tỷ giá điều chỉnh lên 9,3% vậy ít nhất toàn bộ tiền thuế nhập khẩu, thuế VAT nộp bằng tiền đồng cũng tăng chừng đó, vì sao ông nói không ảnh hưởng đến giá cả?

Và cuối cùng nếu còn thì giờ, hỏi thêm ông Thúy, liệu trong thời gian tới lại tái diễn tình trạng hai giá không? Và nếu có thì mức tỷ giá “được tính vào các yếu tố kinh doanh” là tỷ giá nào vậy, thưa ông? Để coi ông Thúy trả lời như thế nào về tác động của tỷ giá vào lạm phát – trong thời gian tới chứ không phải ngay bây giờ.

Thứ Bảy, 12 tháng 2, 2011

Các nhà kinh tế Việt Nam đi đâu cả rồi?

Các nhà kinh tế Việt Nam đi đâu cả rồi?

Việt Nam có bao nhiêu giáo sư, phó giáo sư kinh tế? Có lẽ rất nhiều. Thế nhưng lúc nền kinh tế trải qua những biến chuyển lớn như lần phá giá tiền đồng cuối tuần rồi, chẳng thấy ai đưa ra những phân tích, bình luận ra đầu ra đũa.

Công việc của các giáo sư, phó giáo sư là nghiên cứu bên cạnh giảng dạy. Nền kinh tế Việt Nam là một mảng đất màu mỡ cho nhiều nghiên cứu có giá trị trên bình diện quốc tế và những dịp như cuối tuần rồi là lúc các giáo sư kinh tế ứng dụng các công trình nghiên cứu của mình vào thực tế. Hầu như tất cả đều im lặng. Họ không có công trình nghiên cứu hay họ chưa thể công bố nghiên cứu của mình?

Tôi xin đưa ra một ví dụ. Khi Việt Nam điều chỉnh tỷ giá, nhiều ý kiến từ các nhà phân tích nước ngoài lo ngại tác động của việc điều chỉnh này lên lạm phát nhưng họ chỉ nói chung chung theo lý thuyết chứ không ai nghiên cứu sâu để đưa ra nhận định chính xác.

Mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát đã được nghiên cứu kỹ ở nước ngoài (gõ cụm từ exchange rate pass-through sẽ tìm thấy nhiều bài viết công phu). Dựa vào các nghiên cứu này, các nhà kinh tế Việt Nam hoàn toàn có thể lập công thức tính toán tỷ lệ ảnh hưởng từ tỷ giá được điều chỉnh lên lạm phát một cách dễ dàng. Tại sao không ai làm cả?

Một ví dụ khác. Suốt cả tháng nay trên bốn năm tờ báo khác nhau, “chuyên gia kinh tế cao cấp” Bùi Kiến Thành đưa ra những kiến nghị động trời như phải giảm lãi suất để chống lạm phát; Ngân hàng Nhà nước vì không vay của ai, không phải huy động vốn nên chi phí huy động vốn bằng 0, cho nên phải cho ngân hàng thương mại vay với lãi suất chừng 3%-4%, Nhà nước nên cho doanh nghiệp vay với lãi suất 0%.... Thế mà các nhà kinh tế trong nước im lặng hoàn toàn, không một ai lên tiếng chỉ ra cái nguy hiểm của lập luận này.

Hay câu nói của Thomas Friedman lại ứng nghiệm trong trường hợp này: “No one has ever washed a rented car”?

Cập nhật:

Đã có bài của anh Nguyễn Quang A - "Cẩn trọng với lời khuyên của cố vấn".

Thứ Năm, 10 tháng 2, 2011

Bao nhiêu phần trăm?

Bao nhiêu phần trăm?

Sáng nay Ngân hàng Nhà nước tuyên bố điều chỉnh tỷ giá. Mấy tiếng sau, các hãng tin và báo chí nước ngoài đưa tin đầy đủ nhưng lạ một điều mỗi báo đưa một con số phần trăm khác nhau.

Financial Times nói là 9,3% (The State Bank of Vietnam, the central bank, said on its website that it was cutting the official dong-dollar exchange rate from 20,693 to 18,932, a reduction of 9.3 per cent). (Câu này thì Financial Times viết nhầm rồi – lẽ ra phải là to 20,693 from 18,932 hay đảo ngược hai con số lại).

Reuters nói 8,5% (The State Bank of Vietnam dropped the dong's reference rate by 8.5 percent against the dollar and narrowed the currency's trading band to 1 percent from 3 percent on either side of that midpoint rate).

Sau đó bổ sung thêm con số 7% (The combined effect pulled the weak limit of the band down about 7 percent to 20,900 from 19,500, and brought official and black market exchange rates closer to alignment).

Bloomberg nói 7% ngay trong tít (Vietnam Devalues Dong by a Record 7%, Seeking to Curb Deficit).

Con số nào mới đúng?

Tỷ giá bình quân liên ngân hàng trước 1 USD ăn 18.932 đồng sau điều chỉnh thành 1 USD ăn 20.693 đồng thì đó là một mức điều chỉnh tăng 9,3% cho những người nắm đồng đô-la.

Hãng Reuters ngược đời nhìn từ phía người nắm tiền đồng, trước 18.932 đồng đổi được 1 USD nay phải 20.693 đồng mới đổi được 1 USD thì đó là một mức giảm 8,5% giá trị tiền đồng so với đô-la Mỹ.

Còn 7% là so sánh tỷ giá niêm yết của ngân hàng (đã cộng biên độ giao dịch) trước và sau điều chỉnh.

Theo tôi, không có con số nào đúng cả vì trong thực tế, đã lâu rồi, làm gì có chuyện 18.932 đồng hay 20.693 đồng hay thậm chí 20.900 đồng đổi được 1 USD! Nói đùa vậy thôi chứ coi bộ Reuters nói chính xác nhất. Ví dụ, tỷ giá từ 20.000 đồng/1 USD lên 40.000 đồng/1 USD thì chúng ta sẽ nói tiền đồng mất giá một nửa (50%) chứ đâu nói tiền đồng mất giá 100% (mất 100% là mất sạch rồi còn gì)! Hơn nữa, với những người chỉ có tiền đồng thì thấy nó giảm giá 8,5% so với đô-la Mỹ chứ làm gì có đô-la để nói nó tăng 9,3% như báo chí trong nước.


Thứ Hai, 7 tháng 2, 2011

Chọn lựa

Chọn lựa

Đọc các phân tích, bình luận, tuyên bố trên báo chí khắp nơi về những diễn biến trong hai tuần gần đây tại Ai Cập không làm chúng ta hiểu thêm vấn đề. Đó là bởi những quyền lợi phức tạp đan xen nhau đằng sau hậu trường.

Lấy ví dụ Mỹ. Sở dĩ Mubarak tồn tại suốt 5 nhiệm kỳ, cai trị Ai Cập trong 28 năm qua là vì Mỹ thấy ở ông ta một đồng minh tin cậy được để duy trì các lợi ích của Mỹ tại khu vực này, như ngăn chận làn sóng Hồi Giáo cực đoan, chủ trương hòa hoãn với Israel… Bởi thế, Mỹ từng bỏ lơ yếu tố độc tài, tham nhũng, lạm quyền của Mubarak để đổi lại cái gọi là ổn định tình hình.

Một khi làn sóng dân chủ dậy lên, người dân tràn xuống đường, đòi Mubarak ra đi, thoạt tiên Mỹ nương theo làn sóng này với những tuyên bố đại loại Mubarak phải từ chức ngay đúng theo bài bản ủng hộ dân chủ. Nhưng chỉ vài ngày sau, Mỹ thay đổi thái độ, không còn thúc bách như trước. Đọc các bình luận trên báo chí bảo thủ ở Mỹ chúng ta sẽ hiểu ngay lý do. Nhiều ý kiến bình luận kiểu đó cho rằng nếu Mỹ bỏ rơi Mubarak, Ai Cập sẽ rơi vào vòng kiểm soát của nhóm Huynh Đệ Hồi Giáo, là phe phái được cho là có mối quan hệ mật thiết với Hamas, Iran và các phe phái cực đoan khác. Nói tóm lại họ lo sợ Ai Cập sẽ trở thành một nhà nước Hồi Giáo thần quyền như Iran.

Thế nhưng có lẽ cũng không cần quan tâm lắm đến chuyện chính trị phức tạp này. Điều mà ai cũng thấy qua vụ Ai Cập là: 1/Các chính thể độc tài không phải không hiểu được nguyện vọng của người dân nước họ; 2/Họ có hai chọn lựa, một là nghe theo nguyện vọng này để xây dựng một xã hội dân chủ bền vững, hai là đợi đến khi người dân lên tiếng, lúc đó có thể đã muộn.

Những tuyên bố mang tính nhượng bộ của chính quyền Ai Cập chứng minh cho điều đầu tiên. Ngay từ những ngày đầu khi người dân Ai Cập xuống đường, Mubarak tuyên bố không ra tranh cử nữa, cũng không còn chuyện Mubarak “nhường ngôi” cho con. Sau đó, lần lượt các nhân nhượng khác được đưa ra: tự do báo chí, sửa đổi Hiến pháp để bầu cử tự do, bỏ luật khẩn cấp, từng bị giới mật vụ lạm dụng để bắt bớ người vô cớ, không ngăn chận kiểm soát Internet nữa…

Dĩ nhiên, giới cầm quyền biết rõ đây là nguyện vọng bình thường và chính đáng của người dân Ai Cập nhưng chỉ khi chịu áp lực của cả triệu người dân giận dữ họ mới nhượng bộ.

Điểm chung của các chính thể độc tài ở Libya, Syria, Ai Cập, Yemen, Algeria và Tunisia và các nước lớn đứng đằng sau họ là không thèm đếm xỉa đến số phận người dân, coi việc người dân phải thuần phục họ là chuyện đương nhiên. Cho nên phần lớn đã chọn cách bỏ qua nguyện vọng của người dân nước họ.

Tusinia là trường hợp khi giới cầm quyền chịu nghe theo thì đã muộn. Và ở Ai Cập, dù tình hình có chuyển biến như thế nào thì cũng đã muộn cho giới cầm quyền vì không đời nào người dân chịu quay về với xiềng xích nô lệ như trước.

Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2011

Vàng và hai cô gái

Vàng và hai cô gái

Thời buổi này nếu ai đó nói vàng chưa chắc là dấu hiện của sự giàu có, ắt chúng ta sẽ bảo họ khùng. Câu chuyện một người chết khát trong sa mạc trên lưng là túi vàng nặng trĩu không thuyết phục được ai vì đó chỉ là ngoại lệ.

Thế nhưng vàng hay tiền bạc đồng nghĩa với sự thịnh vượng là một trong những biện luận sai mà nhiều thời đại, xưa lẫn nay, đều mắc phải. Vào lúc cao trào trong thế kỷ 16, 17, những nước theo chủ nghĩa trọng thương cố gắng vơ vét vàng bạc, châu báu về cho nước mình càng nhiều càng tốt vì họ nghĩ rằng có vàng là có tất cả. Sức mạnh quân sự của quốc gia chỉ nhằm phục vụ cho ngoại thương một chiều, bán thật nhiều hàng hóa cho nước khác, thu về vàng bạc, mua hàng của nước khác càng ít càng tốt. Phải mất vài trăm năm người ta mới hiểu ra, ôm một đống vàng về cho ngân khố nhưng xã hội không có hàng hóa thì sự thịnh vượng chỉ là ánh hào quang bên ngoài của những thỏi vàng mà thôi.

Hiện nay người ta cho rằng Trung Quốc cũng đang áp dụng một dạng chủ nghĩa trọng thương trong chính sách kinh tế của mình. Trung Quốc biến mình thành đại công trường, sản xuất hàng hóa cho thế giới, dựa vào lợi thế công nhân giá rẻ để thu về thật nhiều… tiền, đến giữa năm nay, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã lên trên 2.600 tỷ đô-la Mỹ! Đánh đổi tài nguyên, sức lao động của người dân, bỏ lơ tác hại môi trường để thu về một đống tiền như thế, Trung Quốc lại phải đau đầu vì khối tài sản này đang trói tay họ trong nhiều chính sách tiền tệ. Ai nói chủ nghĩa trọng thương đã biến mất?

* * *

Kinh tế học có khá nhiều biện luận sai như thế vì có nhiều quy luật kinh tế trái ngược với suy luận lô-gích thông thường. Ví dụ theo lô-gích thông thường, một nông dân được mùa ắt phải vui mừng một thì khi nông dân cả một vùng, một nước được mùa ắt phải vui mừng gấp triệu lần. Nhưng không phải, nếu cả nước được mùa, giá bán nông sản sẽ sụt giảm nhanh chóng và thu nhập của nông dân sẽ bị ảnh hưởng tệ hại. Hoặc một ví dụ khác, trong thời buổi kinh tế khó khăn, tiết kiệm chi tiêu, dành dụm cho những ngày thiếu thốn là suy nghĩ quá đúng đắn – nhưng chỉ đúng ở trên bình diện cá nhân. Nếu cả xã hội đều đi theo hướng giảm chi tiêu thì chắc chắn khủng hoảng càng trở nên trầm trọng, không có lối thoát.

Bây giờ chúng ta hãy thử quan sát một trò chơi để thấy kinh tế học tràn đầy những nghịch lý như thế.

Giả thử có người bỏ ra một tờ 100 đô-la để bán đấu giá. Luật chơi là người trả giá cao nhất sẽ thắng, mua được tờ 100 đô-la này với giá đã trả; người trả giá cao thứ nhì thua và phải chịu mất khoản tiền ra giá. Đương nhiên đầu tiên sẽ có người trả 1 đô-la và ngay lập tức có người khác trả 2 đô-la, cứ thế hai bên sẽ đua nhau ra giá đến 99 đô-la (vì vẫn còn lời được 1 đô-la). Đến đây người ra giá 98 đô-la có hai chọn lựa, hoặc ngừng chơi, thua mất 98 đô-la hay ra giá 100 đô-la và hy vọng nếu thắng sẽ huề vốn. Nhưng sự đời không đơn giản, người kia cũng lập luận tương tự, nếu không ra giá tiếp, anh ta sẽ mất 99 đô-la, nhưng trả 101 đô-la lại lợi hơn vì chỉ chịu thiệt 1 đô-la thôi, nếu thắng. Đến đây, các bạn đã thấy tờ 100 đô-la có thể bán được với giá vài ba trăm là chuyện có thể xảy ra!

Người sáng suốt sẽ bĩu môi nói: ai khùng mà đi đấu giá dại dột thế! Đó chính là lý do vì sao các nhà kinh tế gia cứ cãi nhau suốt; kinh tế học thì có quy luật mà hành vi ứng xử của con người thì không. Chúng ta vẫn thường thấy cách “cứu nguy bàn thua trông thấy” như vụ bán đấu giá nói trên trong cuộc sống thường ngày: gắng rót thêm ngân sách vào những dự án thua lỗ hòng cứu vãn tình hình, bất kể chi phí ngày càng nặng thêm.

* * *

Một trong những câu chuyện thường được đem ra kể để minh họa cho cách biện giải sai trong kinh tế học là câu chuyện “kính cửa sổ bị ném vỡ”.

Một hôm con của người chủ tiệm tạp hóa chơi banh, bất cẩn đá vỡ kính cửa sổ. Các nhà kinh tế học xúm lại bàn tán: Giả thử tiền thay kính là 100 đô-la, tự nhiên một chuỗi lợi ích kinh tế đã diễn ra ngay khi kính bị vỡ và được thay. Tiệm bán kính này, người thợ lắp kính, rồi tiệm bán bánh hay cung cấp cho người thợ này, đến tận người nông dân trồng lúa mì bán cho tiệm làm bánh…

Có đúng thế thật không? Ai cũng thấy lập luận kiểu này là không đúng nhưng nó chính là cơ sở cho việc biện minh nhiều dự án tào lao nhất trên đời như dự án xây chiếc cầu Gravina Island Bridge trị giá 233 triệu đô-la ở Alaska để nối với đảo Gravina bé xíu chỉ có 50 người dân. Thậm chí nó còn được dùng để biện giải cho rằng chiến tranh là có lợi cho kinh tế, chiến tranh là lối thoát cho khủng hoảng kinh tế! Vấn đề của câu chuyện “kính cửa sổ” hay các dự án kích cầu trời ơi nằm ở chỗ người ta đã không tính đến thiệt hại của người chủ tiệm tạp hóa, cơ hội bán kính cho khách khác của người làm kính, cơ hội bán bột mì của người nông dân cho nơi khác, cơ hội dùng tiền dự tính chi cho dự án vào việc khác… Nói là dự án tào lao nhưng đặt cho nó cái tên hoàng tráng, ít ai còn nghĩ nó tào lao nữa.

* * *

Chắc ai cũng đã từng nghe qua câu chuyện hai người hàng xóm, thuê nhau đào hố. Một người thuê người kia đào một cái hố với tiền công là 1 tỷ đồng. Đào xong, người kia thuê lại người đầu lấp cái hố này lại cũng với tiền công 1 tỷ đồng. Cuối ngày, cả hai mệt nhoài nhưng hớn hở khoe nhau thu nhập của họ vào loại kỷ lục thế giới. Các nhà kinh tế học dùng câu chuyện này để chứng minh đo lường hoạt động kinh tế bằng GDP là không chính xác. Thế nhưng nếu hai anh chàng này sống ở Việt Nam, sẽ có nhiều rắc rối cho họ chứ không phải chơi. Thu nhập cá nhân lên đến 1 tỷ đồng, ắt phải nộp thuế, bất kể chi phí của anh ra sao. Và thật ra, những anh chàng này cũng đang hiện diện nhiều ở nước ta nếu quan sát cách thiên hạ đào hố lên, lấp hố xuống, rồi lại đào hố lên để lấp hố xuống. Thuế thu nhập cá nhân thì không nhưng tính vào tăng trưởng GDP là có cả đấy.

Cuối cùng xin kể một biến thể của câu chuyện này. Người ta thấy hai cô gái tóc vàng hoe, cô đi trước đào hố lên, cô đi sau lấp hố lại, cả hai làm việc miệt mài, không biết mệt. Các cô gái tóc vàng hoe thường bị “văn học dân gian” đem ra chế diễu trí thông minh tỷ lệ nghịch với vẻ đẹp của họ. Ở đây biết đâu họ đọc được câu chuyện hai người hàng xóm bèn bắt chước nhưng làm sai? “Không phải”, một cô nói. “Bọn em có ba người lận. Đứa đầu đào hố, đứa giữa gieo hạt, đứa cuối lấp hố. Nhưng hôm nay đứa giữa bị bệnh”!

Nhưng đừng kể câu chuyện này cho dân Việt Nam chúng ta nghe. Bởi chuyện tương tự trong nền kinh tế chạy theo chỉ tiêu và thành tích không phải là hiếm nên không có gì đáng cười cả.

Bài đăng phổ biến