Thứ Ba, 13 tháng 9, 2011

Giá của đồng vốn

Giá của đồng vốn

Hôm qua, tình cờ đọc cuốn “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới” của Đặng Phong. Không thể tin được có thời giá thu mua thóc của nông dân chỉ là 2 hào/kg – kéo dài trong nhiều năm trời, bất kể giá thực tế có cao hơn gấp mấy chục lần. Cũng không thể tin được lập luận của Ủy ban Vật giá Nhà nước, bảo vệ cho cơ chế ấn định giá này, lên án bất kỳ ai phản đối bằng những lời lẽ nặng nề như “trái với phương châm chính sách giá cả đã đề ra trong Nghị quyết của Đại hội lần thứ III của Đảng”, “trái với quy luật kinh tế cơ bản của CNXH”. Thậm chí có người còn xem ổn định giá có nghĩa là đấu tranh chống những lực lượng phi XHCN, và hạ bút viết: "Đây là một cuộc đấu tranh có tính chất giai cấp."

Đặng Phong viết: “Vào những năm của thập kỷ 60, người ta thường phủ nhận mọi tìm tòi trong khoa học bằng những loại “vũ khí thô sơ” như: “Trái với quan điểm của Đảng”, “mất lập trường giai cấp”, “trái với những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội”... Ở thời điểm này nhìn lại, có lẽ ai cũng thấy rõ chuyện đúng sai nhưng lúc đó lại không dễ!

Nay câu chuyện trần lãi suất cũng là một dạng ấn định giá – giá sử dụng đồng vốn.

Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định rõ (Điều 91): Tổ chức tín dụng được quyền ấn định mức lãi suất huy động vốn; Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất. Ngân hàng Nhà nước chỉ có quyền quy định “cơ chế xác định phí, lãi suất” trong trường hợp hoạt động ngân hàng “có diễn biến bất thường” mà thôi.

Chính vì luật lệ quy định rất rõ như thế nên trước nay Ngân hàng Nhà nước thường phải thông qua Hiệp hội Ngân hàng để tìm cách đưa ra một trần lãi suất thỏa thuận giữa các ngân hàng với nhau. Chỉ đến đầu năm nay, NHNN mới ban hành Thông tư 02, quy định lãi suất huy động vốn tối đa bằng tiền đồng Việt Nam của các ngân hàng, bao gồm cả khuyến mại dưới mọi hình thức, là 14%/năm.

Và tuần trước với Chỉ thị 02, NHNN nhắc lại mức trần này, đồng thời đe dọa sẽ cách chức lãnh đạo ngân hàng nào vi phạm, nâng lãi suất huy động lên quá 14% dưới bất kỳ hình thức nào.

Ở đây, mở ngoặc nói thêm: Nhiều người thắc mắc liệu NHNN có quyền “đình chỉ hoặc miễn nhiệm chức vụ của người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng” như công bố tại Chỉ thị 02 với những ai lách trần lãi suất?.

Nhiều chuyên gia cho rằng NHNN chỉ có thể đình chỉ, miễn nhiệm với người quản lý các ngân hàng thương mại nhà nước, chứ tại ngân hàng cổ phần việc quản lý nhân sự là do hội đồng quản trị và cổ đông quyết định, làm sao NHNN can thiệp được.

Thật ra, Luật các tổ chức tín dụng 2010 có quy định tại điều 37 rằng NHNN có quyền đình chỉ, tạm đình chỉ các lãnh đạo (như chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc) mọi ngân hàng, kể cả ngân hàng cổ phần “vi phạm… quy định khác của pháp luật có liên quan trong quá trình thực hiện quyền, nghĩa vụ được giao”.

Ngoài ra, Chỉ thị 02 của NHNN khi nói về biện pháp xử lý các ngân hàng vi phạm trần lãi suất cũng căn cứ vào Khoản 12, Điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010. Khoản 12 này cho phép NHNN đình chỉ, tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng khi “tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng”.

Dễ nhận thấy nhất là trong khi lãi suất cho vay không còn trần nào nữa cả và lãi suất huy động tối đa là 14% thì lợi ích của người dân gửi tiền và doanh nghiệp vay tiền đã bị xâm phạm một cách rõ rệt. Được lợi nhất trong tình hình này là các ngân hàng một khi chênh lệch hai loại lãi suất này giãn ra mà không theo quy luật cung cầu.

Thế thì vì sao không để các ngân hàng cạnh tranh thu hút tiền gửi bằng lãi suất? Thực tế không thể để các ngân hàng thoải mái nâng lãi suất huy động lên được vì nếu một ngân hàng dù nhỏ, dù không có uy tín, nâng lãi suất lên 17% chẳng hạn thì lập tức người gửi tiền sẽ rút tiền gửi ở các ngân hàng khác, đổ xô đến gửi tại ngân hàng này. Điều đó sẽ kích động một cuộc đua lãi suất mà thực tế đã nhiều lần xảy ra. Sẽ có ngân hàng lâm vào cảnh thanh khoản cạn kiệt, và lãi suất sẽ bị đẩy lên cao không có điểm dừng.

Vì thế, một mặt, có thể hiểu được tính logic của Thông tư 02 nhưng mặt khác, không thể để tình trạng “phản cạnh tranh” này kéo dài. Những biện pháp hành chính này sẽ tạo ra tình huống “rủi ro về đạo đức”, tạo điều kiện để các ngân hàng hoạt động bất kể rủi ro. Mấu chốt của vấn đề là do quan niệm cho rằng không thể để bất kỳ ngân hàng nào trong hệ thống lâm vào khó khăn. Nhưng giả sử cứ áp dụng luật pháp thật nghiêm minh, cứ để một hai ngân hàng yếu kém thua lỗ đến mức phải bán lại hay sáp nhập vào ngân hàng khác, biết đâu sẽ phá bỏ được mâu thuẫn nói trên.

Giả sử không còn trần lãi suất huy động vốn, chắc chắn sẽ có ngân hàng nâng lãi suất này lên cao. Lúc đó, NHNN sẽ phải tuyên truyền thật mạnh về khái niệm “lợi nhuận cao đi liền với rủi ro cao” để người dân cân nhắc giữa cái lợi trước mắt và tính an toàn cho đồng tiền của họ. Kèm theo đó là những quy định phạt đối với những khoản tiền gửi rút trước thời hạn để chi phí chạy theo lãi suất cao không còn hấp dẫn với người gửi tiền nữa. Ngân hàng huy động vốn lãi suất cao ắt phải cho vay với lãi suất cao tương ứng. Không một ngân hàng nào có thể chịu mức lãi suất huy động vốn quá cao trong một thời gian dài trong khi ngân hàng khác vẫn giữ mức lãi suất huy động thấp. Chỉ một thời gian ngắn, họ sẽ phải giảm lãi suất quay về với mức chung của thị trường.

Chính lúc này vai trò giám sát của NHNN phải phát huy tác dụng để ngăn chặn những hoạt động rủi ro của ngân hàng. Hạn chế tín dụng cho những ngành sẵn sàng chấp nhận lãi suất cao cũng giúp giảm áp lực chạy đua theo lãi suất như cho vay kinh doanh chứng khoán.

Nếu ngân hàng nào gặp khó khăn trong thanh khoản, phải huy động vốn bằng mọi giá, nên công khai tên tuổi ngân hàng đó ra để người dân biết và không chạy theo lợi nhuận từ lãi suất hấp dẫn. Và NHNN phải sẵn sàng đưa áp dụng tình trạng kiểm soát đặc biệt như từng làm trước đây với một số ngân hàng. Tất cả những biện pháp này, áp dụng đồng thời và cương quyết, sẽ hạn chế tình trạng chạy đua nâng lãi suất vô tội vạ.

(Bài này viết lại từ một bài đã đăng trên TBKTSG hồi tháng Ba nhưng chưa đưa lên đây).

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2011

Chuyện chữ & nghĩa - 1

Chuyện chữ & nghĩa - 1

Giới thiệu: Hiện nay trên mạng thấy có lưu truyền cuốn sách dạng ebook “Tiếng Anh theo dòng thời sự” của tôi. Rất tiếc đây là ấn bản ebook mà một người nào đó làm vội, chỉ lấy mấy chục bài từng đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn rồi gom lại thành sách. Thật ra, về tiếng Anh, tôi có viết ba cuốn: Chuyện chữ & nghĩa, NXB Trẻ năm 1997; Tiếng Anh lý thú, NXB TPHCM năm 2000 và Tiếng Anh theo dòng thời sự, NXB Trẻ năm 2008. Tất cả ba ấn bản này đã không còn ngoài nhà sách nữa, nhiều bạn bè đòi tặng cũng đành chịu. Nay tôi sẽ lần lượt đưa lên đây các bài trong ba cuốn này và hy vọng có lúc nào rảnh sẽ làm thành một cuốn ebook đàng hoàng, chính thức.

Cái gì khó nhất

Đối với câu hỏi, học tiếng Anh cái gì là khó nhất, phần lớn cho đó là cách đọc, cách phát âm. Một ít người nói ngữ pháp tiếng Anh rắc rối. Theo tôi, khó nhất với người Việt chúng ta khi học tiếng Anh là cách dùng từ.

Bạn thử nghĩ mà coi, ai đời từ company người nào đã học qua tiếng Anh đều biết là công ty. Thế nhưng xem phim, nhất là loại phim hình sự cảnh hai nhân vật ngồi trên xe bỗng một người nhìn vào kính chiếu hậu thốt lên: “We’ve got company” thì từ company qua cách dùng trong tình huống này buộc ta phải hiểu là cái đuôi (Có kẻ theo dõi chúng ta đấy). Rồi company trong câu We’re judged by the company we keep lại có nghĩa bạn bè – Người ta sẽ xét đoán bạn qua bạn bè mà bạn đang giao du.

Tuyệt nhất là một quảng cáo sử dụng lối chơi chữ, gán luôn cho company cả hai nghĩa trên. Một công ty sản xuất bao bì viết: We aren’t just known for our company. We’re known for the company we keep. Từ company đầu tiên có nghĩa là tên tuổi công ty còn company trong câu sau vừa có nghĩa khách hàng (sử dụng bao bì của mình) vừa là các công ty khác. Chúng tôi nổi tiếng không chỉ nhờ tên tuổi công ty. Người ta còn biết đến chúng tôi qua các công ty khách hàng của chúng tôi nữa.

Ở một mức độ khó hơn, ví dụ rather fairly đều dịch là khá nhưng khi dùng trong văn cảnh, chúng lại mang nghĩa khác xa nhau. We’re having rather cold weather for OctoberTháng 10 mà thời tiết như thế này thì hơi lạnh. Như vậy rather mang ý nghĩa chê, thất vọng. Trong khi đó fairly mang ý khen. Oh, yeah, he’s fairly tall for his age. Cho nên nếu một em học sinh đọc xong một bài tập và nói, “Oh, it’s fairly easy” sẽ khác với một em khác cho rằng bài tập đó rather easy. Có thể nói em đầu khiêm tốn hơn và em thứ nhì hơi chủ quan!

Phần lớn những trường hợp cách dùng từ ảnh hưởng đến nghĩa câu văn đều được giải thích rõ trong các cuốn sách ngữ pháp biên soạn nghiêm chỉnh. Như từ musthave to. Ở mức sơ cấp, sách giáo khoa sẽ cho hai từ này là đồng nghĩa; đến mức độ cao hơn, sách sẽ cho những ví dụ để cho người học thấy sự khác nhau giữa hai từ. Ví dụ dễ nhớ nhất là trường hợp một anh chàng đến nhà người yêu chơi, một lúc sau, nhìn đồng hồ và nói, “I’m afraid I have to go now.” (vì hoàn cảnh khách quan như bận việc mà phải đi chứ anh ta chưa muốn về chút nào). Ngược lại nếu anh ta nói, “I must go now.”là anh này muốn tỏ ý không muốn ở chơi nữa. Một cô thấy một kiểu áo mới đẹp quá nên nói, “I must save money to buy this” (quyết định phải để dành tiền là nảy sinh ngay lúc đó). Nhưng một cô khác khi có người hỏi vì sao phải tằn tiện đến thế mới giải thích: “I have to save money to go to university.” (quyết định dành dụm tiền để vào đại học là chuyện có chủ ý từ lâu.)

Các cuốn từ điển biên soạn công phu đều có một phần gọi là Usage để ghi rõ cách sử dụng từ đó, khác biệt với những từ tương tự như thế nào. Ví dụ hai từ đều có nghĩa là liên tục – continuouscontinual. Nhưng continual loss of power during the storm có nghĩa là mất điện liên tục suốt trận bão (cứ có điện rồi mất điện miết). Còn continuous loss of power during the storm là mất điện hẳn trong suốt trận bão.

Ngược lại có rất nhiều trường hợp sự tinh tế trong cách dùng phải qua thực tế mới phát hiện ra. Ví dụ ai cũng biết housewife là người nội trợ như đàn bà Anh, Mỹ rất ghét từ này, họ cho rằng nó hạ thấp vai trò của phụ nữ và thích dùng từ homemaker hơn. Hoặc có nhiều từ đổi nghĩa tùy văn cảnh được dùng. It’s an inside job là gì bạn có thể đoán được không? Một công ty bị mất trộm, nếu có người tuyên bố như trên, ý anh ta nói có tay trong đấy.

Một điều lạ là loại từ tiếng Anh đơn giản thường gây khó khăn cho người học hơn từ khó vì từ đơn giản đôi lúc được dùng theo nghĩa mới, làm người nghe chủ quan, cứ hiểu theo nghĩa thường gặp. Ai từng học qua tiếng Anh đều biết từ good. Nhưng khi nó được dùng trong câu sau thì phải dè chừng: “I’m moving to Europe for good”for good là thành ngữ mãi mãi, đi luôn. Ngay cả những cụm từ xem chừng vô hại như as good as tưởng đâu là thể so sánh bằng nhau như thật ra chúng mang nghĩa gần như, hầu như. The $2,000 motorbike is as good as new – chiếc mô tô 2.000 đô kia gần như là xe mới. Hay cũng từ good dùng trong câu này chỉ tương đương như very: I’ll do it when I’m good and ready.

Như vậy, người học hay sử dụng tiếng Anh cần tạo cho mình thói quen cảnh giác trước các từ đã học nhưng khi dùng trong câu không còn bóng dáng nghĩa quen thuộc nữa. Đọc câu: “A top-of-the-range Yamaha two-stroke will be yours for the best part of $6,000.” bạn phải mạnh dạn xem lại từ điển loại tốt tìm thử best còn có nghĩa gì khác để hiểu đúng cả câu. Bạn sẽ học được thêm nghĩa mới của cụm từ for the best part ofmost:Một chiếc xe Yamaha hai thì loại xịn nhất giá gần cả 6.000 đô.

Lấy một ví dụ đơn giản nhất: nghe một ai thốt lên câu “Way to go!” bạn sẽ nghĩ nó quá dễ và không cần quan tâm, rằng way là con đường, to go là đi, vậy way to go là đi theo đường này (!!!) hay khá hơn, bạn có thể gán cho nó một nghĩa đúng là có dùng trong thực tế: đường còn xa, còn lâu mới xong.

Nhưng thật ra, way to go ở đây là một câu tán thưởng, “Chà, giỏi quá!” Một nước cờ hay, một giải pháp tức thời, một cú banh tuyệt vời, tất cả đều có thể tán thưởng bằng câu “Way to go!”

Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2011

Những mẩu tin đáng lưu ý

Những mẩu tin đáng lưu ý

Tốc độ tăng trưởng GDP thực sự ở Việt Nam là bao nhiêu? Không ai có câu trả lời chính xác. Nếu nhìn vào con số báo cáo chính thức thì GDP sáu tháng đầu năm 2011 đã tăng 5,57% nhưng đi một vòng các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh, đâu đâu cũng thấy chuyện phá sản, nợ nần, thua lỗ, bế tắt.

Trong bối cảnh đó, có những mẩu tin rất đáng lưu ý vì chúng gián tiếp cho thấy bức tranh thật về sự tăng trưởng GDP của Việt Nam.

- Petrolimex cho biết từ tháng 6 đến nay lượng tiêu thụ xăng dầu trong nước giảm mạnh do lực cầu yếu. Ước tháng 7 mức tiêu thụ chỉ bằng 64% của thời điểm tháng 2-2011. Để cân đối nguồn cung cho tháng 8 và những tháng cuối năm, Petrolimex đã đẩy mạnh tái xuất xăng dầu, dãn, hoãn các chuyến tàu nhập xăng dầu miễn sao đừng bị phạt.

- Bangladesh cho biết họ sẽ nhập khẩu 120.000 tấn sản phẩm xăng dầu từ Việt Nam (mua của Petrolimex) trong thời điểm từ tháng 7 đến tháng 12-2011.

- Bộ Công thương cho hay lượng điện phục vụ cho sản xuất của bảy tháng đầu năm tăng chậm, chỉ đạt 9,4% thay cho mức 15% cùng kỳ năm trước. Vì thế các doanh nghiệp sản xuất điện ngoài ngành điện đang bị ế, không bán được điện.

-------------------------

Cập nhật:

Anh Lê Hồng Giang có viết một entry về chuyện này:

Nhà báo Nguyễn Vạn Phú nghi ngờ số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm không phù hợp với số liệu sản lượng điện và xăng dầu. Lấy số liệu từ website của TCTK, tôi tính tốc độ tăng trưởng sản lượng điện và khí đốt (TCTK không cung cấp số liệu riêng cho ngành điện) rồi so sánh với tốc độ tăng trưởng GDP (tất cả đều tính theo giá 1994). Sau đó tính trung bình tỷ lệ tăng trưởng điện và khí so với GDP trong giai đoạn 1996-2010 cho kết quả là 2.07 lần. Như vậy tốc độ tăng trưởng sản xuất/tiêu thụ điện 9.4% sẽ tương đương với tăng trưởng GDP bằng 4.7% (giả sử khí đốt cũng tăng trưởng tương đương với điện). Như vậy so với số liệu của TCTK (GDP tăng 5.57%) thì số liệu ước tính này thấp hơn gần 1%.


Một điểm thú vị là nếu lấy số liệu GDP của ngành điện/khí/nước chia cho sản lượng thì tỷ lệ này giảm liên tục từ năm 1995 đến nay (ngoại trừ năm 1998). Điều này cho thấy chi phí đầu vào của ngành điện/khí/nước so với giá bán ngày càng tăng, có thể do tỷ lệ nhiệt điện/thủy điện tăng nhưng cũng có thể do efficiency/productivity giảm.

Thứ Năm, 11 tháng 8, 2011

Tôi từng là “tội đồ”

Tôi từng là “tội đồ”

Thời báo Kinh tế Sài Gòn số ra tuần này có đăng bài của nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan bàn về đầu tư công. Bài viết nêu ra những nguyên tắc rất cơ bản để giúp nhà hoạch định chính sách phân định được đâu là dự án đầu tư công có hiệu quả, đâu là dự án lãng phí, chạy theo phong trào.

Tuy nhiên điều tôi thích nhất ở bài này là ở câu sau: “Viết bài này, tôi không nghĩ mình là “người ngoài cuộc” mà phần nào đó còn là một “tội đồ” vì đã từng tham gia lãnh đạo Chính phủ nhưng bản thân chưa nhận thức được đầy đủ tình hình và chưa đóng góp hữu hiệu vào việc hạn chế, ngăn chặn tình trạng hao công tốn của khi đầu tư công không hiệu quả”.

Có thể đọc bài viết đó ở đây.

Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

Đại biểu là doanh nhân đại diện cho ai?

Đại biểu là doanh nhân đại diện cho ai?

Có một điều rất lạ được nhiều người xem là bình thường: mỗi khi nhắc đến các đại biểu Quốc hội là doanh nhân, người ta thường xem các đại biểu này đại diện cho quyền lợi, tiếng nói của giới doanh nhân cả nước.

Thậm chí tân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, trong lần gặp gỡ các đại biểu Quốc hội là doanh nhân cũng đã phát biểu: “Các đại biểu là doanh nhân khi thảo luận tại Quốc hội cần phải đại diện cho ý chí, nguyện vọng của doanh nghiệp cả nước, cố gắng làm hết sức mình, làm sao thể hiện tiếng nói của doanh nghiệp đối với Quốc hội.” (TTXVN).

Cách suy nghĩ này thường ít khi xảy ra với các đại biểu có nghề nghiệp khác, như ít ai nghĩ đại biểu là giáo viên thì đại diện cho giáo chức hay đại biểu là bác sĩ đại diện cho giới y tế!

Câu hỏi đặt ra là đại biểu Quốc hội có đại diện cho một giới nào đó riêng biệt, một nghề nghiệp cụ thể hay một nhóm người nào đó hay không?

Theo luật, đại biểu Quốc hội trước hết đại diện cho ý chí và nguyện vọng của người dân ở đơn vị bầu cử ra mình và sau đó là đại diện cho người dân cả nước. Không có luật nào nói đại biểu Quốc hội là doanh nhân thì phải đại diện cho giới doanh nghiệp. Cách suy nghĩ như thế sẽ dẫn đến những hệ lụy khó lường hết.

Bởi trên thực tế, đại biểu Quốc hội là doanh nhân thường nắm rõ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hiểu được những khó khăn, những vướng mắc của người cùng ngành nghề nên thường phát biểu về những vấn đề mà doanh nghiệp phải đương đầu. Dĩ nhiên là doanh nhân, đại biểu Quốc hội thuộc giới này, thường ủng hộ những chủ trương, chính sách có lợi cho cộng đồng doanh nghiệp.

Như thế sẽ có lúc nảy sinh xung đột quyền lợi: chính sách có lợi cho doanh nghiệp chưa hẳn có lợi cho toàn thể cộng đồng; chủ trương nghiêng về doanh nghiệp có thể gây thiệt cho người dân nói chung. Lúc đó, đại biểu Quốc hội không thể xem mình là đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp hay không nữa mà phải đứng về phía lợi ích của cử tri mình đại diện.

Nếu xem tiền đề “đại biểu Quốc hội là doanh nhân thì đại diện cho giới doanh nghiệp” là đương nhiên, chẳng khác nào chúng ta cổ súy cho việc hình thành những nhóm lợi ích nhưng chỉ hạn chế ở một số loại nhóm lợi ích mà thôi.

Lấy một ví dụ từ phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa mới. Một số đại biểu là doanh nhân đã phát biểu tại Quốc hội, phê phán việc hạn chế tín dụng đối với bất động sản và chứng khoán là không công bằng hay khẳng định việc thắt chặt tín dụng chưa hẳn đã kiềm chế được lạm phát như mong đợi… Là doanh nhân, việc yêu cầu nới lỏng tín dụng cho các dự án bất động sản đang kẹt vốn của mình là chuyện bình thường nhưng trong tư cách là đại biểu Quốc hội, liệu đề nghị đó có trung khớp với “ý chí và nguyện vọng” của cử tri nơi bầu ra mình hay không? Nếu người dân biết rằng nới lỏng tiền tệ cho doanh nghiệp dễ thở hơn có thể gây ra lạm phát tiếp tục sau này, liệu họ có đồng tình để đại biểu Quốc hội của mình phát biểu như thế?

Phát biểu đã thế, làm sao ngăn ngừa được việc đại biểu Quốc hội là doanh nhân sẽ tìm mọi cách để vận động hành lang cho các dự án của mình mà vẫn yên tâm danh chính ngôn thuận đang hoạt động vì lợi ích của nơi mình đại diện?

Luật hiện nay cũng đã quy định, “Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan”. Nhưng ở vế ngược lại, cử tri khó lòng biết được đại biểu của mình bỏ phiếu cho các chủ trương, chính sách lớn như thế nào, ngoại trừ những phát biểu công khai tại hội trường. Chính vì thế, nghề nghiệp của đại biểu không quan trọng bằng suy nghĩ, quan điểm, lập trường của đại biểu trước cử tri để cư tri biết mình sẽ bầu cho người sẽ bỏ phiếu như thế nào tại Quốc hội trong tương lai. Hiện nay ở các nước, rất nhiều đại biểu Quốc hội xuất thân từ ngành luật không lẽ tất cả đều đại diện cho tiếng nói của giới luật sư?

Nói ở góc độ lý tưởng, lẽ ra khi trở thành đại biểu Quốc hội, doanh nhân phải ngưng việc kinh doanh, luật sư phải ngưng hành nghề, nhà giáo phải ngưng giảng dạy, để tránh mọi xung đột lợi ích có thể xảy ra. Ở nước ta khi đại biểu còn phải kiêm nhiệm thì chưa thể làm triệt để như thế. Nhưng việc phân định rạch ròi, đại biểu đại diện cho ai, là bước đầu tiên để đem lại sự chuyên nghiệp cho Quốc hội.

Thứ Năm, 3 tháng 3, 2011

Thiếu công bằng trong tăng giá điện

Thiếu công bằng trong tăng giá điện

TBKTSG số ra tuần này có bài “Thiếu công bằng trong tăng giá điện” của Vũ Thành Tự Anh, theo tôi, đã đưa ra những nhận xét rất đáng lưu ý. Qua những con số tính toán cụ thể, tác giả cho rằng tính theo biểu giá mới, một hộ gia đình càng tiêu dùng nhiều điện thì tỷ lệ tiền điện phải đóng thêm càng ít hay nói cách khác người nghèo sẽ chịu mức tăng giá điện cao hơn người giàu. Có thể đọc bài này tại đây.

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2011

Ông nói xuôi, bà nói ngược

Ông nói xuôi, bà nói ngược

Nếu các giải pháp Chính phủ đưa ra có tác dụng tâm lý tích cực bao nhiêu thì các phát biểu ngược nhau của các quan chức lại phá tan tính tích cực đó bấy nhiêu.

Ông Lê Đức Thúy, Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cứ khơi khơi trả lời phỏng vấn báo chí, rằng nhất thiết phải nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên.

Ông Nguyễn Văn Giàu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phản bác ngay, nói bây giờ mà tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên là điều không tưởng. Chắc ổng cũng bực, mình là Thống đốc, sao có người cứ xía vô chuyện điều hành nên mới nói: “Chỉ có ngân hàng trung ương mới biết được và có quyền lựa chọn giải pháp nào là phù hợp”.

Ông Nguyễn Sinh Hùng, Phó Thủ tướng, tuyên bố với báo chí, hiện nay, số dư tài khoản ngoại tệ của các doanh nghiệp và ngân hàng thương mại lên tới 21 tỉ USD. Vì ông không tách bạch giữa doanh nghiệp với ngân hàng nên không ai biết ngân hàng đang giữ bao nhiêu ngoại tệ nhưng chắc cũng là con số lớn lắm.

Ngược lại, ông Giàu khẳng định: Ngân hàng Nhà nước chưa phát hiện ngân hàng nào găm giữ ngoại tệ. Ông còn nói rõ hơn: trạng thái ngoại hối của các ngân hàng thương mại trước khi điều chỉnh tỷ giá, trạng thái ngoại tệ của toàn hệ thống dương 1,58%, sau khi điều chỉnh trạng thái âm 1,16%.

Đặc biệt là trường hợp ông Lê Đức Thúy. Ông này nhiều lúc trả lời phỏng vấn báo chí như một người ngoài cuộc. Chẳng hạn ông nói: “Chúng ta giữ lại lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn quá thấp. Những ngân hàng lớn mua trái phiếu chính phủ thậm chí cao hơn lãi suất huy động, chịu lỗ một chút sau đó lên thị trường liên ngân hàng cho vay lại 15-20%. Họ kiếm lời trên lưng nhà nước”. Đó là chính sách tiền tệ do ông giám sát, nếu có lổ hổng như thế một phần do ông giám sát chưa tốt, sao lại đổ lỗi cho ngân hàng “kiếm lời trên lưng nhà nước”?

Hay ở chỗ là có lúc ông đề nghị nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên, lúc thì nói chống lạm phát ở đây không đồng nghĩa với việc thắt chặt chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và để cho doanh nghiệp không sống nổi. Nói được như vậy thì giỏi thiệt.

* * *

Nhân đây cũng xin nói một chút về chuyện cấm kinh doanh vàng miếng ngoài thị trường tự do.

Phải nói người dân nước ta có sức chịu đựng rất tốt. Ở nước khác khi nhà nước tuyên bố cắt giảm chi tiêu ngân sách, người dân nước họ sẽ phản đối ngay nhưng người dân nước ta lại hoan nghênh, chấp nhận thắt lưng buộc bụng để chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô theo kêu gọi của nhà nước.

Thế nhưng nếu không khéo, đưa ra những kế hoạch kiểu như cấm kinh doanh vàng miếng sẽ có tác dụng ngược, hiệu quả tâm lý tích cực bị triệt tiêu mất.

Hiện nay vàng miếng được sử dụng như một loại ngoại tệ ở Việt Nam và vì thế đang cộng hưởng với đô-la Mỹ gây ra những xáo động trên thị trường tiền tệ. Đô-la Mỹ thì Nhà nước có thể quản lý tỷ giá, ấn định ở mức mong muốn nhưng vàng thì không. Tỷ giá đô-la trên thị trường tự do vừa tác động vào giá vàng trong nước, đồng thời giá vàng trong nước lại phản ánh tỷ giá tự do này. Cấm kinh doanh vàng miếng tức là giảm được những tác động ngoại ý này.

Đó là ý muốn. Nhưng liệu một nghị định cấm kinh doanh vàng miếng như thế có đạt được ý muốn này không?

Chắc chắn là không.

Bởi nếu không sử dụng được vàng miếng để bảo toàn tài sản, người dân sẽ quay sang vàng nữ trang. Và lúc đó sẽ có những loại vàng nữ trang y chang vàng miếng. Ví dụ người ta sẽ đục thêm một cái lỗ giữa miếng vàng bốn số chín của SJC và nói đây là loại nữ trang đời mới thì sao?

Không dùng vàng nữ trang thì người ta sẽ quay sang địa ốc, ngoại tệ khác hay bất kỳ một tài sản nào khác, miễn sao tính mua bán dễ dàng, chênh lệch giá mua bán không lớn như vàng miếng. Lúc đó không lẽ sẽ có những nghị định khác, lần lượt cấm các loại tài sản này?

Ngược lại, nếu một nghị định như thế ra đời, tâm lý người dân sẽ bị tác động mạnh, giới kinh doanh với đủ chiêu thức vẫn sẽ kinh doanh được và mức lời sẽ tăng vọt trong khi thiệt hại sẽ nghiêng về phía người dân, chẳng hạn chênh lệch giá mua bán vàng sẽ tăng mạnh trong một thị trường mua bán chui.

Theo tôi, không nên có một nghị định như thế mà chỉ cần cấm kinh doanh vàng ảo, từng một thời gây ra những xáo động to lớn. Nếu tỷ giá ổn định, giá vàng trong nước liên thông với giá vàng quốc tế thì không việc gì phải để ý đến nó nữa.

Các báo lúc đó cũng sẽ giảm bớt tin tức về giá vàng. Ở các nước khác, không có chuyện biến động giá vàng cứ được đưa tin đậm như ở Việt Nam.

Bài đăng phổ biến