Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2013

Nhượng bộ

Nhượng bộ

Hơn hai năm trước vào tháng 12-2010, tôi có viết bài “Cứng rắn trước sức ép” để khuyên chính phủ không nên đứng ra trả nợ thay Vinashin. Đó là chuyện liên quan đến khoản trái phiếu quốc tế 600 triệu đô-la mà tập đoàn này phát hành không có bảo lãnh của chính phủ. “Vinashin vay không có sự bảo lãnh của Chính phủ thì cứ để Vinashin chịu trách nhiệm. Nếu chủ nợ tuyên bố Vinashin default (mất khả năng chi trả), ảnh hưởng là có và sẽ rất lớn. Nhưng chẳng thà chịu đau lần này, nhân đó thắt lưng buộc bụng để vượt qua các thử thách còn hơn vì lợi ích ngắn hạn mà nhượng bộ sức ép” (trích).
Sau đó là chuyện một chủ nợ (Elliott) kiện ra tòa, rồi dàn xếp và giờ đây cuối cùng 600 triệu đô-la không bảo lãnh (cộng 23 triệu lãi chưa trả) đã trở thành 623 triệu đô-la trái phiếu có bảo lãnh của chính phủ, 12 năm nữa đáo hạn, lãi suất 1% mỗi năm. Điều này đồng nghĩa với chuyện ngân sách trước sau gì cũng phải chính thức gánh chịu thêm một khoản nợ lớn nữa.
Cứng rắn không nổi bởi dù chính phủ không đứng ra bảo lãnh cho khoản vay này, Vinashin là một doanh nghiệp nhà nước, Vinashin không trả nợ thì uy tín tín dụng của Việt Nam bị ảnh hưởng, không một doanh nghiệp nào đi vay nước ngoài được nữa.
Có lẽ anh Vũ Quang Việt nói đúng, nợ doanh nghiệp nhà nước phải tính hết vô cho nợ công vì nợ của các tập đoàn nhà nước trước sau gì nhà nước cũng phải gánh chịu trách nhiệm.
Nhưng nợ Vinashin không chỉ có chừng đó. Không biết bao nhiêu chục ngàn tỷ Vinashin nợ các ngân hàng trong nước đang nằm trong cục nợ xấu chiếm đến 8,6% tổng dư nợ và không biết bao nhiêu trong số đó sẽ phải “cơ cấu lại” theo kiểu “đưa về tương lai, để từ từ rồi tính”. Nếu vậy đề án giải quyết nợ xấu mà có dùng ngân sách nhà nước để trang trải theo kiểu tương tự như trên thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên – đấy cũng là nợ xấu do các con cưng của nhà nước gây ra mà thôi.
Và 600 triệu đô-la chứ đâu phải một khoản tiền nhỏ, Vinashin vay về làm gì để giờ này không trả được nợ? Câu chuyện phát hành trái phiếu của Vinashin sau đó chia nhau khoản tiền này trong các thành viên của tập đoàn như thế nào được kể rõ trong các lần thanh tra Vinashin – tại sao thông tin này cho đến bây giờ vẫn chưa được công khai?

Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

NHNN đã chịu điều chỉnh


NHNN đã chịu điều chỉnh
Hôm trước tôi có đặt câu hỏi vì sao Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cứ khăng khăng đòi chỉ mua bán vàng miếng SJC trong khi văn bản của Chính phủ không yêu cầu, không bắt buộc, thậm chí không đề cập đến SJC.
Nay khác với dự thảo, NHNN đã nhượng bộ, nói tại Thông tư mới nhất rằng trong trường hợp cần thiết, NHNN có thể xem xét mua bán các loại vàng miếng khác (tức vàng phi SJC).
Đây là một sự điều chỉnh cần thiết bởi nếu không Thông tư sẽ trái với Nghị định và trái với Quyết định của Chính phủ.
Thật ra điều chỉnh như vậy là khôn ngoan bởi giả thử NHNN mua vàng phi SJC đang rẻ hơn vàng SJC để đưa vào dự trữ thì được nhiều cái lợi: mua được vàng cùng chất lượng bốn số chín mà giá lại rẻ hơn; giúp đưa giá vàng phi SJC và vàng SJC về bằng nhau. Bây giờ các thương hiệu phi SJC đâu còn sản xuất nữa nên không ngại chuyện nhập lậu vàng về bán cho Nhà nước để hưởng chênh lệch giá.
Vì vậy NHNN nên chấm dứt chuyện cho các ngân hàng tạm xuất vàng phi SJC rồi nhập lại vàng nguyên liệu vê để dập thành vàng miếng SJC. Làm như thế vừa lãng phí, lợi nhuận lại rơi vào tay các ngân hàng.
Ngoài ra, NHNN cần coi kỹ câu này: “Loại vàng miếng giao dịch mua bán với NHNN là vàng miếng do NHNN tổ chức sản xuất (vàng miếng SJC)”. Nói như vậy tức chỉ mua bán loại vàng SJC sẽ sản xuất theo hợp đồng vừa mới ký với NHNN. Tất cả loại vàng SJC trước đây là không phải loại vàng “do NHNN tổ chức sản xuất”. Lại một sự tự trói buộc không cần thiết.

Vì sao vốn chủ sở hữu của ngân hàng giảm mạnh?


Vì sao vốn chủ sở hữu của ngân hàng giảm mạnh?
Giả thử bạn có 100 đồng, đem đi cho vay, 100 đồng đó là tài sản của bạn. Giả thử tiếp người vay vì lý do nào đó, không thể trả nợ, bạn mất 100 đồng, tài sản giảm tương ứng.
Đối với giới ngân hàng, sự việc không đơn giản như vậy, 100 đồng nợ xấu đó họ vẫn xem là tài sản nhưng để phản ánh đúng thực tế là nợ không đòi được nữa rồi, họ mới thêm một khoản mục gọi là “dự phòng rủi ro”, âm 100 đồng. Có một mục âm như thế nên tài sản giảm đi và vốn chủ sở hữu cũng giảm tương ứng trên bảng cân đối kế toán.   
Về chuyện tính toán, anh Lê Hồng Giang có viết một bài giải thích cặn kẽ ở đâyở đây. Anh Vũ Quang Việt cũng có một bài về vấn đề này trên TBKTSG số ra tuần này.
Có thể rút ra một số nhận định từ nội dung nói trên.
-          Dự phòng rủi ro chính là (sự phản ánh) nợ xấu (con số có thể không khớp nhau, nợ xấu thường cao hơn dự phòng bởi nợ tỷ lệ trích lập khác nhau, chưa kể giá trị thế chấp được khấu trừ; dự phòng cũng có thể cao hơn nếu tính cả dự phòng chung 0,75% cho mọi khoản vay).
-          Dự phòng rủi ro không phải là một khoản tiền mặt bỏ vô một quỹ nào cả. Nó chỉ là một quy định kế toán và là số âm.
-          Dự phòng rủi ro tăng có nghĩa nợ xấu tăng chứ không phải như người ta thường nhầm (trích lập dự phòng rủi ro làm giảm nợ xấu) bởi trích lập dự phòng rủi ro có nghĩa là ngân hàng thừa nhận khoản đó là nợ xấu, còn một khi chưa trích lập dự phòng thì chưa có nợ xấu.
-          Nếu có công ty mua bán nợ, giả thử theo như đề xuất của NHNN, mua nợ xấu bằng mệnh giá thì dự phòng rủi ro từ con số âm trở thành con số dương (là trái phiếu mà công ty mua bán nợ trả cho ngân hàng để lấy nợ xấu). Lúc đó vốn chủ sở hữu ngân hàng được hoàn nhập, tăng trở lại theo mức tăng tài sản.
Đối với dân ngoại đạo, không chuyên về tài chính, ngân hàng như chúng ta thì không biết những điều trên cũng chả sao cả. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là một số vị được mệnh danh là chuyên gia ngân hàng, tài chính cũng phát biểu rất là… thiếu chính xác.
Một chuyên gia ngân hàng nói: “Trích lập dự phòng rủi ro là một giao dịch phi tiền mặt… Số tiền trích dự phòng là một cách hạch toán những khoản lỗ có khả năng xảy ra, số tiền này vẫn nằm trong ngân hàng và không mất đi đâu cả mà nó hình thành một quỹ bảo hiểm cho ngân hàng. Khi có thiệt hại, ngân hàng sẽ lấy quỹ đó để bù đắp, tránh ảnh hưởng quá lớn tới kết quả kinh doanh các kỳ sau”.
Ở trên ông này nói “giao dịch phi tiền mặt” nhưng ở dưới lại nói “số tiền này vẫn nằm trong ngân hàng và không mất đi đâu cả mà nó hình thành một quỹ bảo hiểm cho ngân hàng” thiệt là mâu thuẫn. Như chúng ta đã thấy trích lập dự phòng rủi ro đúng là giao dịch phi tiền mặt nên làm gì có tiền đâu, từ quỹ nào mà bù đắp cho nợ xấu.
Một chuyên gia khác nói, nợ xấu giảm từ 8,6% xuống còn 6% là do các ngân hàng đã xử lý các khoản nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro. Như ở trên đã nói, nợ xấu thể hiện ra dưới hình thức trích lập dự phòng rủi ro nên không thể lấy con số trích lập dự phòng của các ngân hàng trừ đi nợ xấu để nói tổng nợ xấu đã giảm được từng ấy, từng ấy.
Nói cách khác khi thấy tuyên bố: Nguyên nhân chính khiến nợ xấu giảm là do các ngân hàng đã tăng cường trích lập dự phòng rủi ro theo quy định thì chúng ta biết ngay chuyên gia này nói sai, nói ngược rồi, trừ phi ngân hàng xóa nợ.
Vấn đề khác, hấp dẫn hơn, là vì sao tài sản của các ngân hàng giảm mạnh, sụt đến 102.000 tỷ đồng trong tháng 1-2013? Vốn chủ sở hữu của ngân hàng cũng giảm, thoạt tiên báo cáo giảm 32.000 tỷ đồng, sau đó NHNN đính chính, chỉ giảm 16.300 tỷ đồng.
Nếu đọc lại phần đầu, chúng ta có thể kết luận ngay tài sản giảm là do ngân hàng thừa nhận nợ xấu, ghi nhận một mất mát là dự phòng rủi ro (con số âm làm giảm tài sản). Dĩ nhiên là có những nguyên nhân khác nữa như vàng huy động không còn được xem là tài sản nhưng kèm theo việc tài sản giảm, con số trích lập dự phòng tăng trong thực tế. Vậy thì trích lập dự phòng rủi ro tăng tức nợ xấu tăng, chứ tại sao lại tuyên bố nợ xấu đã giảm từ 8,6% xuống còn 6%?
Và vì sao bỗng dưng ngân hàng chịu thừa nhận nợ xấu để rồi phải giảm tài sản, giảm vốn chủ sở hữu? Bởi NHNN đã có kế hoạch thành lập công ty mua bán nợ, sẽ mua nợ của ngân hàng bằng với mệnh giá trả bằng trái phiếu. Nếu được vậy, ngân hàng sẽ được quyền hoàn nhập trích lập dự phòng rủi ro, âm trở thành dương, vốn chủ sở hữu trước bị trừ nay được cộng trở lại. Ai chậm chân không khai nợ xấu mất cơ hội ráng chịu!


Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2013

Cứ để theo lẽ tự nhiên


Cứ để theo lẽ tự nhiên
Nếu nhìn lại quá trình đổi mới với cột mốc 1986, nổi lên có những cụm từ như cởi trói, tháo gỡ, phá rào, tháo khoán, tức điểm nổi bật của lần đổi mới nền kinh tế đó là thay đổi tư duy bao cấp, tránh tư tưởng can thiệp, để cho nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường. Từ chỗ nhà nước lo hết mọi việc trong một nền kinh tế kế hoạch hóa, từ cây kim, sợi chỉ đến chai nước mắm, chiếc lốp xe… nay nhà nước chỉ việc đứng sang một bên để mọi người tự tổ chức làm ăn với nhau, nông dân được cấy cày trên mảnh ruộng của mình thì bỗng chốc nền kinh tế khởi sắc trở lại. Bước đột phá lúc đó là khoán 10 cho phép nông dân chủ động canh tác, chủ động bán sản phẩm theo giá thị trường và mở cửa nền kinh tế cho đầu tư nước ngoài vào đầu thập niên 1990.
Nay thiết nghĩ tái cơ cấu nền kinh tế cũng không cần những đề án gì to tát, chỉ cần rà soát lại, coi còn những gì là rào cản thị trường không để cho nó vận hành đúng quy luật, cái gì là sự can thiệp làm méo mó thị trường. Phát hiện và bãi bỏ những rào cản can thiệp đó chính là đem đến một sức sống mới cho nền kinh tế, tương tự như một cuộc đổi mới lần thứ hai.
Theo lẽ đó, trao cho người dân, đặc biệt là nông dân, quyền sở hữu đất đai là điều quan trọng nhất, tác động đến nhiều người dân nhất, sẽ là bước đột phá, mở ra những hướng đi mới cho nền kinh tế. Một thị trường to lớn, liên quan đến 70% dân số sẽ được khai thông, vận hành đúng quy luật. Thử hình dung, người dân được làm chủ chính thức mảnh đất của họ thì trong một thời gian, bộ mặt nông thôn sẽ thay đổi, cơ sở hạ tầng sẽ được cải thiện, nông dân làm ăn với tư cách chủ ruộng sẽ có tầm nhìn dài hơn, bao quát hơn và hiệu quả hơn.
Điều thứ nhì là thay đổi tư duy đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước. Đừng gán cho khu vực này cái vai trò nó làm không nổi là giữ vững đặc trưng xã hội chủ nghĩa. Có nhiều cách khác để duy trì đặc trưng đó ít tốn kém hơn mà lại hiệu quả hơn nhiều. Chỉ cần chấm dứt dùng ngân sách như bầu sữa nuôi các doanh nghiệp nhà nước cồng kềnh, kém hiệu quả, nhiều lỗ hổng gây thất thoát là đã nâng hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế lên một mức cao hơn trước nhiều.
Kế đó là sự dứt khoát, đoạn tuyệt với tư duy ưa can thiệp vào sự vận hành của nền kinh tế. Chính phủ đã có kinh nghiệm trong việc can thiệp vào thị trường chứng khoán – với bài học là không thể nào can thiệp được. Ở những lần can thiệp được như lần bơm vốn kích cầu vào mấy năm trước thì sự can thiệp ấy để lại hậu quả cho đến ngày nay với một thị trường địa ốc sớm bùng phát và cũng sớm lụi tàn. Nay cũng vậy, nếu vẫn còn những loại chính sách như kiểu giải cứu thị trường địa ốc thì quy luật vận hành thị trường sẽ bị méo mó ngay, nợ xấu sẽ khó lòng giải quyết vì không ai có động lực tự mình một khi còn le lói khả năng được Chính phủ giải cứu.
Dĩ nhiên, đi kèm với các thay đổi chính sách này là chấn chỉnh hệ thống luật lệ theo hướng siết lại những lỗ hổng từng bị lợi dụng như tình trạng sở hữu chéo trong ngân hàng, dùng tiền ký gởi của dân để đầu tư vào doanh nghiệp khác, tình trạng vẽ ra dự án ma để chiếm đất của người dân, là khai thác tài nguyên bừa bãi, gây ô nhiễm…
Đó chính là con đường “tái cơ cấu” hiệu quả, mở đầu cho một quá trình đổi mới lần thứ hai.

Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013

Ai lợi, ai thiệt


Ai lợi, ai thiệt
Rốt cuộc chủ trương của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với vàng là gì?
Sở dĩ có thắc mắc này là bởi tháng 11-2012, khi trả lời chất vấn trước Quốc hội, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình đã khẳng định không có chuyện liên thông với giá vàng thế giới. Nay các hoạt động gần đây của NHNN lại nhắm đến mục tiêu kéo giá vàng trong nước về sát giá vàng thế giới như cho phép tạm xuất, tái nhập vàng, thử nghiệm đấu thầu vàng miếng… Sự mâu thuẫn trong tuyên bố và trong chính sách như thế buộc người dân đặt câu hỏi, trong thực tế, những chính sách như thế có lợi cho ai?
Thử nghĩ cho tạm xuất vàng bốn số chín phi SJC rồi nhập lại vàng nguyên liệu cũng bốn số chín về để dập thành vàng SJC, người có lợi đầu tiên là các hãng nước ngoài nhận mua rồi nhận bán, dùng uy tín của họ để lấy tiền của dân Việt Nam. Quy trình này rõ ràng gây ra một sự lãng phí không đáng có (9 tấn trong tháng 3 không phải là con số nhỏ). Người hưởng lợi lớn hơn là các ngân hàng được cấp giấy phép tạm xuất, tái nhập vì chênh lệch giữa hai loại vàng (chất lượng tương đương, chỉ khác nhau cái mác SJC) dù sau này có kéo xuống vẫn là món lãi cao. Người chịu thiệt hại rõ ràng là người dân trước đó đã lỡ mua vàng phi SJC. Và quan trọng nhất, gây ra những phiền phức, lãng phí không đáng có này là chủ trương chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia – một khái niệm do NHNN đặt ra trong khi các văn bản của Chính phủ không có văn bản nào yêu cầu chuyện này cả. Ngay cả quyết định mới nhất của Thủ tướng Chính phủ ký hôm thứ Hai, 4-3, cho phép NHNN mua bán vàng miếng, cũng không có chữ nào về SJC hay thương hiệu vàng quốc gia. Nói cách khác, NHNN được phép mua bán vàng miếng bất kể thương hiệu, vì sao NHNN lại tự hạn chế mình vào thương hiệu SJC để nền kinh tế chịu thua thiệt, phải nhờ nước ngoài “đóng dấu bảo chứng lên vàng” giùm?
Trong buổi lễ ký kết hợp đồng nguyên tắc gia công vàng miếng giữa NHNN và SJC, ông Lê Hùng Dũng, Chủ tịch SJC tuyên bố: “Tôi đảm bảo chỉ trong vòng một tuần sau cuộc ký kết này, giá vàng trong nước sẽ sát với giá vàng thế giới”. Ở các thị trường khác, một tuyên bố như thế là cơ sở vững chãi để giới đầu cơ “đánh xuống” (short position) hưởng lợi đến 4, 5 triệu đồng/lượng vàng. Ở nước ta hiện nay người dân bình thường không có đủ điều kiện để “đánh xuống”, chỉ có ngân hàng mới làm được mà thôi. Ngân hàng, kể cả NHNN không những chỉ hưởng lợi từ khả năng “làm giá ngược” này mà còn hưởng lợi khi đánh xuống giá vàng để khi phải tất toán vàng vào cuối tháng 6-2013 được mua vàng giá rẻ. Thị trường có chịu để người ta “đánh xuống” như thế hay không lại là chuyện khác.
Câu trả lời cho câu hỏi, có lợi cho ai, thiết nghĩ đã rõ.
Với chủ trương đấu thầu vàng cũng vậy – mục đích của nó là gì? Tại sao trước đây NHNN nói không việc gì phải bình ổn giá vàng (một quan niệm đúng vì giá vàng thế giới khi lên khi xuống làm sao chúng ta bình ổn được), nay lại cho đó (đấu thầu vàng) là cơ sở pháp lý cho việc can thiệp bình ổn thị trường vàng. Trước nay mục tiêu của NHNN là làm sao cho người dân không còn mặn mà với việc cất giữ tài sản ở dạng vàng nữa để đưa vào sản xuất, kinh doanh nay bán vàng từ quỹ dự trữ quốc gia chẳng phải là đi ngược chủ trương đó hay sao? Không lẽ vừa loay hoay tìm cách huy động vàng của dân lại vừa tìm cách bán vàng ra cho dân nắm giữ? Tại sao lại kỳ vọng khi giá vàng trong nước bám sát giá vàng thế giới thì người dân sẽ bán vàng ra?
Một khi mục đích chưa rõ ràng, chưa nhất quán, việc quản lý sẽ lúng túng, dễ bị lợi dụng. Chính sách quản lý vàng hiện đang rơi vào tình trạng như thế.

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013

Lý do thật


Lý do thật
+ Những lập luận ủng hộ và phản bác việc phá giá tiền đồng đều có tính thuyết phục như nhau, nghe bên nào nói cũng hay cả. Tuy nhiên một điều mà cả hai bên đều thấy là tỷ giá cứ để nguyên như vậy trong khi lạm phát nhiều năm qua lại cao như thế là không ổn. Ví dụ, GDP năm 2012 tính theo giá so sánh chỉ tăng 5,03% nhưng tính theo giá thực tế tăng đến 16,3%. Nói cách khác, thu nhập đầu người nước ta khi đã khử lạm phát thì không tăng bao nhiêu cả - đúng với thực tế một năm làm ăn nhiều khó khăn cho tất cả; thế nhưng tính theo đô-la Mỹ thì tăng vọt từ 1.386 đô-la/người lên đến 1.609 đô-la/người!
Cái khoản tăng thêm ấn tượng ấy rơi vào tay ai chưa biết nhưng rõ ràng không rơi vào tay người dân bình thường – nói cách khác tỷ giá giữ cố định như hiện nay đang mang tính bao cấp và một số người hưởng lợi, đa phần dân số thì không.
Lô-gích bình thường là NHNN không nên điều chỉnh tỷ giá đột ngột một lần năm ba phần trăm gây biến động, nhất là về mặt tâm lý mà nên điều chỉnh từ từ, để cả năm tỷ giá sẽ được điều chỉnh trong khoảng 3%.
Tại sao chuyện này không diễn ra? E rằng do việc điều chỉnh dần dần như thế đòi hỏi sự chủ động của một bộ máy điều hành cấp vụ - một sự chủ động hiện nay đang thiếu vắng.
*                      *                      *
+ Cái đề xuất đánh thuế lên tiền gởi tiết kiệm nhằm chuyển hướng dòng tiền của dân thay vì chảy vào ngân hàng nay chảy vào sản xuất, kinh doanh là đề xuất phi lý đến nỗi không cần đưa ra nhiều lập luận để phản bác làm gì. Chỉ cần nhớ nguồn vốn cung cấp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế chủ yếu đến từ ngân hàng, dân không gởi tiền vào thì ngân hàng lấy gì cho vay – lúc đó ngành nghề nào cũng đổ vỡ chứ không riêng gì bất động sản. Chuyện đó thôi không nói nữa.
Vấn đề là vì sao giới bất động sản đưa ra một kiến nghị như thế?
Giám đốc một công ty địa ốc cho biết giới kinh doanh bất động sản hiểu rất rõ, Luật Đất đai sắp được sửa đổi ít nhất cũng làm cho việc giải tỏa đất đai của người dân sẽ khó hơn bội phần. Dù Luật có thể chưa công nhận quyền sở hữu đất đai nhưng đất của dân sẽ khó lấy hơn trước vì ai cũng biết đấy là đầu mối của những căng thẳng kiến kiện khắp nơi. Khó hơn có nghĩa quỹ đất sẽ cạn kiệt, giá đất sẽ tăng chứ không thể nào giảm. Vấn đề là bắt đầu tăng vào thời điểm nào mà thôi.
Giới bất động sản hiểu rõ điều đó nên đang tìm mọi cách trụ lại thị trường. Một trong những cách đó là liên tục kiến nghị để nhà nước giải cứu, mong cầm cự thêm ít lâu, chờ giá đất phục hồi như họ kỳ vọng. Đánh thuế kiểu như kiến nghị cũng là một cách giải cứu.

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

Đa sở hữu đất đai: Tại sao không?


Đa sở hữu đất đai: Tại sao không?
Những lập luận đằng sau sự khẳng định đất đai phải thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý hầu như vắng bóng. Không ai giải thích cho cặn kẽ vì sao không cho nông dân sở hữu mảnh đất họ đang canh tác.
Dường như sự “kiên định” này là do quán tính: hễ nói đến chủ nghĩa xã hội thì đất đai phải của tập thể như cách suy nghĩ ngày xưa, nông dân phải vào hợp tác xã mới đúng định hướng chứ không được làm ăn riêng lẻ.
Điều mỉa mai là những nguyên tắc mang tính giáo điều đó đã bị bỏ đi trong các lãnh vực khác, trừ đất đai. Doanh nghiệp tư nhân, kể cả nước ngoài được phép “bóc lột” thoải mái “giá trị thặng dư”, quy mô càng lớn càng được khuyến khích.
Đứng ở góc độ lý thuyết, hiện nay chúng ta đã thừa nhận một nền kinh tế đa sở hữu, trong đó chủ doanh nghiệp tư nhân được quyền sở hữu tư liệu sản xuất, thậm chí các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân được cam kết bảo vệ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của họ. Cách đây hai năm, tranh luận về chế độ công hữu các tư liệu sản xuất – điểm then chốt của chủ nghĩa xã hội - đã kết thúc với kết quả là khái niệm này đã được gác lại. Các doanh nghiệp nhà nước đang được cổ phần hóa, tức đa dạng hóa sở hữu, chứ đâu có khăng khăng nhà nước phải làm chủ.
Nay với nông dân, tại sao không thể mạnh dạn áp dụng một sự ứng xử tương tự - tức là công nhận người dân có quyền sở hữu đất đai – là tư liệu sản xuất chính của họ. Làm khác đi là không tạo ra sự công bằng, là tước bỏ của người nông dân cái quyền họ mơ ước bao giờ nay. Làm khác đi, có nghĩa chỉ áp dụng “định hướng xã hội chủ nghĩa” với nông dân, còn giới doanh nghiệp thì thôi khỏi? Hay nhìn ở góc ngược lại, xây dựng nền nông nghiệp mà đất đai không vận hành theo đúng quy luật thị trường thì, đến một ngưỡng nào đó, làm sao nông nghiệp phát triển tiếp tục.
Thừa nhận nhiều hình thức sở hữu đất đai dẫn đến một số lo ngại – vấn đề là những lo ngại này có cơ sở hay chỉ là lo ngại vô căn cứ?
Lo ngại đầu tiên là sở hữu tư nhân sẽ dẫn đến tích lũy ruộng đất, làm nảy sinh “tầng lớp địa chủ” mới. Cái vô căn cứ ở đây là ràng buộc hạn điền vẫn còn đó; thậm chí nếu sau này không còn hạn điền nữa, người nào muốn canh tác quy mô lớn, tại sao không khuyến khích? Điều đó khác gì một chủ doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn, tuyển hàng ngàn công nhân? Không lẽ một bên khuyến khích, một bên thì cấm?
Lo ngại thứ nhì là đất đai của tư nhân sẽ khó giải tỏa để làm các công trình công cộng hay đơn thuần là để phát triển các khu đô thị mới. Cái khó của việc giải tỏa sẽ tồn tại dù đất là thuộc quyền sử dụng hay quyền sở hữu của người dân. Vấn đề là chính sách công bằng, công trình thật sự cần thiết và quyền lợi của người có đất được tôn trọng thì không có gì khó khăn cả. Thật ra, để bảo vệ quyền lợi của người dân nghèo chỉ còn mảnh đất để canh tác thì càng khó giải tỏa đất càng tốt chứ sao. Để bất kỳ công trình nào cũng phải cân nhắc thiệt hơn chứ không làm đại, làm theo kiểu dự án treo, rồi đẩy người dân vào chỗ mất đất.
Ngược lại, cái lợi của một chế độ đa sở hữu sẽ rất nhiều: nông dân sẽ ứng xử với đất như người chủ chứ không như người thuê như hiện nay, năng suất ắt sẽ tăng, hiệu quả sử dụng đất sẽ được nâng cao. Ngày xưa chỉ cần mảnh đất 5% mà người dân đã có thể xoay xở vượt qua những năm tháng khó khăn của thời bao cấp; nay được sở hữu 100% thì người nông dân sẽ làm ra điều thần kỳ mới.
Quan trọng nhất, hiện tượng đau lòng khi những người dân bị tước mất đất, phải vác đơn đi khiếu kiện khắp nơi sẽ không còn nữa. Giới cường hào mới ở các địa phương không còn có thể dễ dàng vẽ ra dự án để tước đoạt đất của dân; giới làm ăn bất lương không thể cấu kết với giới có quyền lực để đuổi người dân ra khỏi ngôn nhà của họ. Đó mới gọi là đúng định hướng xã hội chủ nghĩa nếu hiểu khái niệm này theo nghĩa chính xác nhất của nó. 

Bài đăng phổ biến