Thứ Tư, 24 tháng 2, 2010

Triết học và tiếu lâm

Tiếu lâm và triết học

Chuyện tiếu lâm và triết học là hai lãnh vực rõ ràng không liên quan gì đến nhau; một bên đọc lướt để cười, một bên nghiền ngẫm để giải đáp những bí ẩn của cuộc đời. Thế nhưng hai tác giả Thomas Cathcart và Daniel Klein lại bỏ công viết một cuốn sách nhằm “tìm hiểu triết học thông qua chuyện tiếu lâm” với tựa đề “Plato và Platypus bước vào quán rượu…” Có lẽ cách hay nhất là dịch chương “Giới thiệu” từ cuốn sách này để chính các tác giả trình bày cho bạn đọc vì sao họ có ý tưởng “quái chiêu” như thế.

* * *

Dimitri: Nếu thần Atlas nâng quả đất trên vai, thế thì ai nâng thần Atlas?

Tasso: Thần Atlas đứng trên lưng con rùa.

Dimitri: Nhưng rùa đứng trên cái gì?

Tasso: Trên một con rùa khác.

Dimitri: Nhưng con rùa ấy đứng trên cái gì?

Tasso: Dimitri thân mến à, toàn là rùa suốt lượt.

* * *

Mẩu đối thoại kiểu Hy Lạp cổ đại này minh họa rõ ràng nhất khái niệm triết học về hồi quy bất tận, cái ý niệm nảy sinh khi ta hỏi về nguyên ủy cuộc sống, về vũ trụ, thời gian và không gian, và quan trọng nhất về một đấng sáng tạo. Phải có cái gì đấy tạo ra đấng sáng tạo cho nên mối dây nhân quả - hay chú rùa – không dừng lại ở đấng sáng tạo được. Hay ngay cả với đấng sáng tạo đứng sau. Hay đứng kế sau nữa. Phải là đấng sáng tạo suốt lượt – dưới.. hay trên, nếu ta thích truy tìm các đấng sáng tạo theo hướng đó.

Nhưng hãy lắng nghe lão Tasso lại một lần nữa. Không chỉ tỏ tường, câu đáp của lão “Toàn rùa suốt lượt” rõ ràng còn mang tính tiếu lâm nữa.

Điều đó không làm chúng tôi ngạc nhiên. Cấu trúc và yếu tố chọc cười của chuyện tiếu lâm cũng giống cấu trúc và yếu tố “ngộ ra” của các khái niệm triết học. Chúng kích thích đầu óc chúng ta theo cùng một cách. Đấy là bởi triết học và truyện cười có cùng xuất phát điểm: làm đảo lộn suy nghĩ bình thường của chúng ta về mọi vật và làm xuất lộ những sự thật bị giấu kín và thường là không hay ho lắm về cuộc đời. Cái mà nhà triết gia gọi là thấu thị, giới tiếu lâm gọi là chìa khóa chọc cười.

Ví dụ, hãy xem chuyện tiếu lâm cổ điển sau. Bề ngoài, trông như chuyện ngu đến bật cười nhưng xét kỹ, nó nói lên cái thâm sâu của triết lý kinh nghiệm chủ nghĩa của người Anh: chúng ta có thể dựa vào loại thông tin nào về thế giới quanh ta đây.

Morty về nhà thấy vợ và thằng bạn thân nhất của mình là Lou nằm trên giường, không mảnh vai che thân. Ngay khi Morty định mở miệng, Lou nhảy khỏi giường và thốt lên: “Trước khi mày có bất kỳ hành động gì, mày phải hỏi chính mày: nên tin tao hay tin vào mắt mày”.

Bằng cách thách thức tính vượt trội của các giác quan, Lou đã đặt ra câu hỏi, loại dữ liệu nào là chắc chắc và tại sao. Cách thu nhận thông tin về thế giới quanh ta – ví dụ, qua mắt – liệu có đáng tin cậy hơn các cách khác – chẳng hạn, tin vào miệng Lou miêu tả hiện thực?

Đây là một ví dụ khác về triết-tiếu lâm, lần này rút ra từ phép loại suy – nếu hai sự việc có cùng kết quả, chúng ắt phải có cùng nguyên nhân.

Một lão ông 90 tuổi đi gặp bác sĩ, hỏi: “Nè bác sĩ, cô vợ 18 tuổi của tôi sắp sinh con”.

Bác sĩ bảo: “Để tôi kể ông nghe một câu chuyện. Một gã đi săn, nhưng thay vì lấy súng lại lấy nhầm cái dù. Khi một con gấu ào đến tấn công, gã bèn giương dù lên, bắn, gấu lăn ra chết”.

Ông lão thốt lên: “Vô lý. Chắc có ai bắn gấu từ hướng khác”.

Bác sĩ nói: “Đấy, tôi cũng nghĩ vậy”.

Không thể tìm ra một ví dụ minh họa nào hay hơn về phép loại suy, một thủ thuật triết học đang được dùng (mà lại dùng sai) trong tranh luận về Thiết kế Thông minh (nghĩa là, nếu có con mắt, ắt trên trời phải có đấng thiết kế mắt).

Chúng tôi có thể kể miết, và thực tế là sẽ kể, từ thuyết bất khả tri đến thiền, từ thông diễn học đến luân hồi. Chúng tôi sẽ chứng minh rằng các khái niệm triết học có thể minh họa bằng chuyện tiếu lâm và nhiều chuyện tiếu lâm hàm chứa những nội dung triết học kỳ thú.

Sinh viên lạc lối vào một lớp triết học thường hy vọng tìm được cách lý giải, chẳng hạn, về ý nghĩa của mọi vật nhưng một gã đầu bù tóc rối, ăn mặt xốc xếch, lừ đừ lên bục giảng, bắt đầu rao giảng về ý nghĩa của “ý nghĩa”.

Gã nói, chuyện gì ra chuyện nấy. Trước khi chúng ta trả lời bất kỳ câu hỏi nào, lớn hay nhỏ, chúng ta cần biết tự bản thân câu hỏi có ý nghĩa gì. Miễn cưỡng lắng nghe, chúng ta lại thấy gã này nói hay ra phết.

Triết học – và triết gia là như thế đấy. Câu hỏi làm nảy sinh câu hỏi, các câu hỏi này làm bật ra hàng loạt câu hỏi khác nữa. Toàn là câu hỏi suốt lượt.

Chúng ta có thể bắt đầu bằng những câu hỏi cơ bản như “Ý nghĩa của mọi vật là gì?” hay “Có tồn tại Thượng đế không?” hay “Làm sao tôi sống đúng với chính mình?” hay “Tôi có vào nhầm lớp không?” nhưng chẳng chóng thì chầy chúng ta sẽ phát hiện ra mình phải hỏi những câu hỏi khác để trả lời những câu nguyên thủy. Quá trình này đã khai sinh ra nhiều ngành triết học, mỗi ngành giải quyết các câu hỏi lớn bằng cách hỏi và cố trả lời những câu hỏi liên quan.

Cho nên “Ý nghĩa của mọi vật là gì?” giải quyết một chuyên ngành gọi là siêu hình học; “Có tồn tại Thượng đế không?” là ngành triết học tôn giáo; “Làm sao tôi sống đúng với chính mình?” thuộc chuyên ngành hiện sinh; “Tôi có vào nhầm lớp không?” là một phân ngành triết học mới gọi là siêu triết học, nơi đặt ra câu hỏi “Triết học là gì?” Cứ thế, mỗi lãnh vực triết học giải quyết những loại câu hỏi và khái niệm khác nhau…

Khi hai đứa chúng tôi lảo đảo bước ra khỏi lớp học đó, chúng tôi bối rối và hoang mang đến nỗi chúng tôi nghĩ đầu óc mình không bao giờ gỡ nỗi mớ bòng bong đao to búa lớn này. Đấy là lúc một gã sinh viên cao học thơ thẩn bước đến, kể cho chúng tôi nghe câu chuyện tiếu lâm về Morty về nhà thấy Lou thằng bạn thân nhất nằm trên giường với vợ mình.

“Đấy mới chính là triết!” – gã nói.

Chúng tôi gọi đấy là triết-tiếu lâm.

Nói thêm: Thomas Cathcart và Daniel Klein tốt nghiệp ngành triết từ đại học Harvard. Sau đó Thomas nghiên cứu đời sống các băng đảng ở Chicago còn Daniel chuyên viết chuyện tiếu lâm cho các tay tấu hài chuyên nghiệp. Cuốn “Plato và Platypus bước vào quán rượu…” bị 40 nhà xuất bản từ chối in nhưng đến khi nhà xuất bản thứ 41 phát hành đã nhanh chóng lọt vào danh sách sách bán chạy nhất của New York Times và đã được dịch ra 20 thứ tiếng.

Thứ Tư, 20 tháng 1, 2010

Nhung lat cat thuc te

Những lát cắt thực tế

Nguyễn Vạn Phú

Thực và ảo

Chiều tối ngày 12-1, lúc đến sân bay Midway ở Chicago, vừa ra khỏi đường ống đã thấy những nhóm người đứng túm tụm mắt dán chặt vào màn hình TV treo trên cao, tôi biết đã có chuyện gì quan trọng xảy ra. Lúc đó, tôi còn phải chờ ở Chicago thêm một tiếng trước khi bay về Las Vegas nên vội vàng đến cổng của mình và đứng lẫn vào những người đang theo dõi tin trên đài CNN. Cơn động đất 7.0 độ Richter gần sát thủ đô Port-au-Prince của Haiti vừa mới xảy ra, tin tức vẫn còn rất sơ sài nhưng mọi người đều cảm nhận mức độ nghiêm trọng của tai họa này.

Các sân bay của Mỹ mùa năm mới này đang có chương trình tặng miễn phí sóng wifi cho du khách do Google cung cấp nên nhiều người mở laptop đọc tin. Tin tức, đủ dạng, đủ kiểu cũng tràn vào máy tính của tôi. Bên ngoài hành lang sân bay, dòng người vội vội vàng vàng đi khắp các ngã vẫn tuôn chảy, bên trong thế giới ảo, thảm họa Haiti cũng lớn dần lên với những cảnh tang thương kinh hoàng bắt đầu xuất hiện. Thế giới nào thực, thế giới nào ảo – một cảm giác thật khó phân biệt.

Càng khó phân định hơn khi đến sân bay Las Vegas, hoàn toàn không có một màn hình nào chiếu tin tức thời sự. Sân bay cũng rực rỡ nhiều màn hình to đùng nhưng tất cả được dùng để quảng cáo các show diễn đủ loại ở thành phố nổi tiếng cờ bạc và giải trí này. Dường như người ta cố ý cô lập du khách khỏi dòng thời sự để họ yên tâm ăn chơi, tiêu tiền. Thậm chí cái đập vào mắt người mới đến sân bay không phải là cảnh thường thấy mà là hàng dãy máy đánh bạc bóng loáng xếp đầy những không gian trống ở phòng chờ!

Ở khách sạn, cái cảm giác thực - ảo mơ hồ này càng lớn hơn. Bước chân vào các khách sạn lớn, chẳng hạn khách sạn Paris hay Bally’s, du khách như bị chôn trong một thế giới ảo, nơi thời gian đứng lại vì không phân biệt được ngày đêm. Sảnh khách sạn rộng mênh mông như một khu phố nhỏ ở châu Âu nhưng trần trên cao bịt kín, sơn giả bầu trời, đèn thắp mờ mờ ảo ảo suốt ngày đêm. Bên ngoài trời có thể đang sáng trưng nhưng vào bên trong, người ta có thể tưởng mình đang dạo phố vào nửa đêm. Máy đánh bạc, bàn đánh bạc để khắp nơi. Mọi người say sưa bấm nút hay theo dõi lá bài của mình. Đây là lần thứ nhì tôi quay về Las Vegas trong chỉ mấy ngày nên không còn tò mò quan sát, vội vàng lên phòng, bật TV và mở máy tính. Tin tức về cơn động đất ở Haiti chiếm trọn các kênh thời sự. Từng giờ, từng giờ, thảm họa thế kỷ này mở ra nhưng cho đến khuya hôm đó, không nguồn tin nào nói được con số thương vong dù là phỏng đoán. Tôi không biết cái nào – không khí đánh bạc bên ngoài phòng hay dòng thời sự trên TV trong phòng – là thực hơn đối với mình.

Không gian thực

Mới mấy tháng trở lại đây, khái niệm “augmented reality” (thực tế bổ sung – tương tác thực tế) bắt đầu được nói tới. Nói đơn giản, đó là khả năng đối chiếu thực tế bạn đang chứng kiến trước mắt với kho dữ liệu thông tin có sẵn trên mạng để hai bên bổ sung cho nhau, giúp người dùng có những lớp cắt thực tế tùy theo nhu cầu của họ. Lấy ví dụ, bạn có thể dùng một điện thoại thông minh như iPhone của Apple hay Nexus One của Google, chụp con đường ngay trước mặt bạn, rồi chạy một phần mềm, ngay lập tức trên màn hình chụp con đường thực tế, sẽ chồng thêm các lớp thông tin như cách đó bao xa có trạm xe buýt, tìm tiệm ăn nhanh thì rẽ hướng nào, nếu kết nối thêm Facebook, sẽ biết ai trong đám bạn bè đang ở gần đó… Ở đây chúng ta không đi vào chuyện kỹ thuật vì sao máy móc làm được chuyện đó (nhờ thiết bị định vị GPS, bản đồ có các lớp thông tin…) mà chỉ hình dung những khả năng xảy ra nhờ cái “tương tác thực tế” này. Nếu để cho trí tưởng tượng chúng ta được bay bổng, không giới hạn bởi những hạn chế hiện nay về hạ tầng hay thông tin, “augmented reality” sẽ giúp con người thoát khỏi những giới hạn vật lý và sẽ như một Tôn Ngộ Không, hoàn toàn có phép đằng vân giá vũ!

Điều muốn nói ở đây là cho dù “augmented reality” chưa phổ biến, cái cảm giác trải nghiệm nhiều lớp thực tế - vừa ảo vừa thực - là có ở nhiều người, nhất là khi đang đi xa, không gian vật lý đang trải nghiệm khác với không gian quen thuộc hằng ngày. Còn nhớ ở Triển lãm Điện tử tiêu dùng CES 2010, đồng thời với việc chiêm ngưỡng các loại đồ chơi công nghệ cao, chính chúng cũng là công cụ giúp người ở xa theo dõi thời sự ở nhà như đang diễn ra trước mắt bạn. Tôi đọc tin cựu tổng giám đốc Jetstar Pacific Lương Hoài Nam bị bắt có lẽ sớm hơn nhiều người ở nhà dù ở xa cả nửa vòng trái đất, đơn giản là vì điện thoại có phần mềm cập nhật tin tức theo thời gian thực trong khi ở nhà có thể nhiều người phải nhiều giờ sau mới đọc tin đó. Cứ tưởng tượng chỉ một thời gian rất ngắn nữa thôi, người ta có thể ngồi ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đeo kính và xem truyền hình trực tiếp 3D một trận bóng đá trong vòng World Cup. Kỹ thuật sẽ giúp người xem trải nghiệm cảm giác y như đang ngồi ngay trên khán đài, hay thậm chí gần hơn, ngay trong sân cỏ, lại có khả năng lượn theo đường bóng để quan sát kỹ hơn bất kỳ ai đang thực sự ngồi trong sân vận động nơi diễn ra trận bóng. Lát cắt thực tế nào hấp dẫn hơn, khi truyền hình 3D còn có nhiều “trò” khác, chen những lớp thực tế khác như thông số về trận đấu, thông tin về cầu thủ, bắt thực tế diễn ra chậm lại hay nhanh hơn…

Và có lẽ mỉa mai nhất là trên chuyến bay từ Bangkok về TPHCM, ngồi trên máy bay của Thai Airways International, xin tờ Bangkok Post lại đọc được ngay tin chủ tịch điều hành hãng máy bay này phải từ chức. Nguyên do là ông Wallop Bhukkanasut và bà vợ, trong một chuyến bay của chính hãng mình đã chở 30 kiện hành lý, cân nặng 398 ký từ Nhật Bản về Bangkok mà không trả tiền cước. Mặc dù hành lý này không phải của vợ chồng ông mà hình như là trái cây chở dùm cho một người bạn, ông Wallop phải ra đi sau khi người ta phát hiện nhân viên khai gian dùm ông giảm số cân còn 170 ký để được miễn cước toàn bộ. Các lớp thực tế thật-ảo đan xen nhau trong một cảm giác rất lạ. Và chỉ đến khi đối diện với dòng xe gắn máy đan chéo với xe hơi như dệt cửi trên đường phố, cảm giác thực tế ảo mới biến mất vì không “augmented reality” nào thể hiện được cảnh giao thông trên đường phố Sài Gòn!

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2009

Ôi, ngôn ngữ!

Ôi, ngôn ngữ!

Tiếng Việt đang ở trong thời kỳ thoái trào, rất cần sự trợ giúp của các nhà ngôn ngữ học để tìm lại sự trong sáng, tinh tế vốn có của nó. Nhưng đọc vào cái tiêu đề của cuộc hội thảo mới được tổ chức ở Hà Nội, tôi nghĩ khó lòng trông chờ nhiều vào sự trợ giúp như thế.

Cái tiêu đề như thế này: “Chính sách của Ðảng và Nhà nước Việt Nam về ngôn ngữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Đây là một hội thảo quốc gia do Viện Ngôn ngữ học tổ chức.

Trong cái tiêu đề dài 26 chữ, chỉ có hai chữ liên quan đến ngôn ngữ và rất dễ bị bỏ sót nếu người đọc theo quán tính đọc nhanh những cụm từ đã quá quen thuộc như “thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, “hội nhập quốc tế”. Lẽ ra những người tổ chức hội thảo nên bắt đầu từ trong nhà, mạnh dạn vượt ra cách dùng từ sáo ngữ, bị dùng nhiều quá hóa mòn để đặt một tiêu đề sát với nội dung của hội thảo hơn.

Điều đáng nói đây là cuộc hội thảo quốc gia đầu tiên sau hàng chục năm vắng bóng loại hội thảo này. Năm 1979 có một hội nghị khoa học toàn quốc mang tên ““Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ” và năm 1993 có hội thảo “Ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ quốc gia và phát triển”. Nếu chú ý chúng ta thấy tiêu đề hội thảo đi từ chỗ ngắn gọn, súc tích và chính xác đến chỗ chung chung, mơ hồ và dài dòng.

Còn nói về định hướng nội dung hội thảo, thiết nghĩ vai trò định hình ngôn ngữ chuẩn mực trong cuộc sống là do các tổ chức như Viện Ngôn ngữ học chứ không phải là chính sách của nhà nước; càng không thể nào trông chờ nhà nước ban hành một bộ luật về ngôn ngữ được.

Lấy ví dụ một chuyện đơn giản mà không ai có thẩm quyền (thẩm quyền về mặt chuyên môn chứ không phải thẩm quyền hành chính) đứng ra giải quyết. Người ta lúng túng, người ta tranh cãi nên phát âm các mẫu tự ABC là a-bờ-cờ hay a, bê, xê. Chuyện này chắc bất kỳ nhà ngôn ngữ học nào cũng có thể giải thích dễ dàng: khi phát âm để ghép vần thì phải đọc a-bờ-cờ nhưng khi đọc tên mẫu tự thì phải nói a, bê, xê.

Không nhà nước nào đủ sức định ra những chính sách và “hướng dẫn thi hành chính sách” cho vô vàn biến thể của ngôn ngữ trong cuộc sống. Chính những nhà khoa học, thông qua báo chí, sẽ là người làm công việc này, bằng các công trình nghiên cứu của mình, nhưng trước tiên là phải bằng cách sử dụng ngôn ngữ chính xác, mẫu mực của chính họ.

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2009

Ôi, số liệu!

Ôi, số liệu!

Nghĩ mà thấy khó cho những người nghiên cứu kinh tế Việt Nam sau này. Bởi khi tiếp cận một con số dù từ nguồn chính thức phát ra mà không kiểm chứng, rất dễ bị sai. Từ con số sai, mọi phân tích hay bình luận sẽ sai theo. Các số liệu đưa ra hiện nay thường chỏi nhau, sự thiếu chính xác là do lý giải các con số theo mục tiêu phát ngôn.

Lấy ví dụ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho biết “Năm 2009, khi giá vàng thế giới vọt cao hơn trong nước, Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu 32 tấn nhưng các doanh nghiệp chỉ xuất khẩu 26,7 tấn.” (Trả lời báo chí ngày 11-11-2009 khi giá vàng tăng đột biến và Ngân hàng Nhà nước tuyên bố cho nhập vàng trở lại).

Trong khi đó, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ riêng quý 1-2009, Việt Nam đã xuất khẩu vàng lên đến 2,3 tỷ đô la Mỹ. Tạm lấy giá vàng bình quân quý 1-2009 là 850 đô-la/ounce thì con số 2,3 tỷ đô-la này tương đương với 2,7 triệu ounce, tức 84 tấn. Sao Thống đốc khi nói không đối chiếu với con số xuất vàng chính thức của Tổng cục Thống kê?

Một ví dụ khác, trong báo cáo kết quả giám sát các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nhận định: “Chỉ tính riêng trong năm 2008, khối doanh nghiệp nhà nước mà nòng cốt là các tập đoàn, tổng công ty, đã đóng góp gần 40% giá trị GDP, tạo ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu và 28,8% tổng thu nội địa (không kể thu từ dầu thô và thuế xuất nhập khẩu).

Với nhận định khối doanh nghiệp nhà nước đóng góp trên 50% kim ngạch xuất khẩu, xin lấy số liệu chính thức của Tổng cục Thống kê để đối chiếu. Báo cáo cuối năm 2008 của Tổng cục viết rất rõ ràng: “Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, bao gồm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, đóng góp 49,7% vào mức tăng chung của xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, đóng góp 50,3%”. Khu vực kinh tế trong nước đóng góp 50,3% mà theo báo cáo của Quốc hội, doanh nghiệp nhà nước cũng đóng góp trên 50% vậy khu vực kinh tế tư nhân trong nước hẳn không ai xuất khẩu gì cả!

(Chỉnh sửa: Xin đính chính: tính ra khu vực kinh tế trong nước chỉ đóng góp 44,5% vào kim ngạch xuất khẩu thôi - 50,3% ở trên là đóng góp vào mức tăng xuất khẩu. Vậy thì con số theo báo cáo của Quốc hội càng không chính xác).

Có lẽ sự khác biệt là do dầu thô. Tổng cục Thống kê thì đưa dầu thô vào kim ngạch của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn báo cáo giám sát thì tính cho doanh nghiệp nhà nước. Ở đây xin lưu ý sự lẫn lộn hay cố ý lẫn lộn này sẽ ngày càng tăng vì hiện nay nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn đã được cổ phần hóa, khi cần người ta có thể xếp chúng vào khu vực kinh tế tư nhân, khi khác thì lại xếp chúng vào khu vực kinh tế nhà nước – tùy theo mục đích sử dụng số liệu. Người nghiên cứu gặp tình huống này thì chỉ biết đầu hàng.

Còn câu “tạo ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp”, thì số liệu cụ thể của Tổng cục Thống kê cho biết tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2008 (giá so sánh 1994) là 652.766 tỷ đồng, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm 164.796 tỷ đồng, tức 25,2%, không biết ở đâu ra con số 39,5%?

Ví dụ loại này còn nhiều. Cho nên bất kỳ ai bình luận trên các con số xem ra có vẻ chính thức, xin cẩn trọng đối chiếu với các con số khác, các nguồn khác, trước khi đưa ra những kết luận không thôi dễ nhầm.

Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2009

Đến thông cáo báo chí cũng phải xin phép

Đến thông cáo báo chí cũng phải xin phép

Đã có khá nhiều góp ý cho dự thảo “Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản” từ các nhà báo và nhà quản lý. Tuy nhiên có một đối tượng bất ngờ nằm trong phạm vi điều chỉnh của Nghị định này là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và hành vi bị phạt tiền từ 10 triệu đến 20 triệu đồng, theo dự thảo Nghị định, cũng bất ngờ không kém: Phát hành thông cáo báo chí mà không có giấy phép.

Bất ngờ là bởi hỏi thăm một vòng các công ty có vốn đầu tư nước ngoài và nhất là các công ty chuyên lo chuyện quan hệ đối ngoại cho các doanh nghiệp này, họ đều trả lời trước nay soạn, gởi các thông cáo báo chí họ đều không nghĩ phải xin phép. Tất cả đều ngạc nhiên, hỏi lại là xin phép ở đâu, thủ tục như thế nào, thời hạn ra sao… Hằng ngày có cả chục đến cả trăm thông cáo báo chí được phát ra, trong đó nhiều nhất vẫn là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Từ chuyện thay đổi nhân sự, giới thiệu sản phẩm mới đến chuyện công bố kết quả khuyến mãi, giảm giá hay những vấn đề cấp bách hơn như giải thích một sự cố sản phẩm đang được dư luận quan tâm… Không lẽ tất cả những thông cáo báo chí này đều phải xin phép?

Nguyên văn dự thảo Nghị định ghi rõ chuyện phát hành thông cáo báo chí không có giấy phép bị phạt tiền là dành cho “cơ quan, tổ chức nước ngoài, pháp nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam”. Điều đó có nghĩa ngay cả những tổ chức như Ngân hàng Thế giới - WB, Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF, Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc - UNDP… mỗi khi muốn công bố đều gì đó cho báo chí qua hình thức thông báo đều phải xin phép nếu không muốn bị phạt tiền từ 10 triệu đến 20 triệu đồng.

Thật ra, quy định phát hành thông cáo báo chí đối với cơ quan, tổ chức nước ngoài phải xin giấy phép nằm ở “Quy chế xuất bản bản tin, tài liệu, tờ rơi; phát hành thông cáo báo chí; đăng, phát bản tin trên màn hình điện tử của các cơ quan, tổ chức nước ngoài, pháp nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam” do Bộ Văn hóa – Thông tin ban hành vào tháng 11-2002. Quy chế này nói rõ hồ sơ xin phép phát hành thông cáo báo chí nộp ở Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Thông tin – Truyền thông), phải nộp hồ sơ “ít nhất trước 48 tiếng đồng hồ so với thời gian dự định phát hành thông cáo báo chí”…

Điều đáng nói là từ năm 2002 đến nay, Bộ là nơi nắm rõ nhất có bao nhiêu hồ sơ gởi đến để xin phát hành thông cáo báo chí, so với thực tế thì con số tuân thủ chiếm chừng bao nhiêu phần trăm. Bộ cũng là nơi hiểu rõ nhất quy chế xin phép này có mang tính thực tiễn không hay chỉ là quy định hình thức bởi thực tế ít ai phát hành một thông cáo báo chí đơn giản một trang giấy mà phải làm hồ sơ xin phép cả. Thông cáo báo chí là cầu nối cung cấp thông tin từ doanh nghiệp đến người tiêu dùng – không có lý do gì phải ràng buộc bằng giấy phép. Còn nếu lo ngại nội dung thông cáo báo chí có những vấn đề gì nhạy cảm hay mang tính sai trái như vu khống đối thủ chẳng hạn thì cơ quan báo chí, nơi nhận thông báo, sẽ phải xử lý thông tin như một nguồn tin bình thường.

Quan trọng hơn, kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, chúng ta đã cam kết không phân biệt đối xử giữa công ty trong nước và công ty nước ngoài. Chắc chắn về mặt pháp lý quy chế đòi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải xin phép khi phát hành thông cáo báo chí trong khi doanh nghiệp trong nước thì không đã bị vô hiệu hóa bởi các văn bản triển khai việc gia nhập WTO.

Quy chế nói trên (phần liên quan đến thông cáo báo chí) có mặt trong đời sống doanh nghiệp từ năm 2002 nhưng không thấy triển khai thực thi. Nay dự thảo Nghị định nêu lại. Thiết nghĩ việc đầu tiên là nên cập nhật lại Quy chế và sau đó đưa nội dung xử phạt nói trên ra khỏi dự thảo Nghị định. Làm như thế chính là đem lại sự nghiêm minh cho pháp luật vì không nên để tồn tại một quy định mà không ai thực hiện cả.

Thứ Hai, 26 tháng 10, 2009

Về báo cáo Koblitz

Về báo cáo Koblitz

Có nhiều cách đánh giá một bài viết. Với bài “A Second Opinion by an American on Higher Education Reform in Vietnam” của GS Neal Koblitz (xin gọi tắt là báo cáo Koblitz) phê phán một báo cáo về giáo dục đại học Việt Nam của hai ông Thomas Vallely và Ben Wilkinson (gọi tắt là báo cáo Vallely), cách hay nhất có lẽ là xét đến hiệu quả sau cùng bài viết mang đến cho người đọc.

Theo cảm nhận của tôi, hiệu quả rõ nhất của của báo cáo Koblitz là muốn người đọc đừng nghe theo những gì nói trong báo cáo Vallely. Đó cũng là ý muốn của tác giả. Đáng tiếc hiệu quả này không cao vì GS Koblitz đã sử dụng các chiêu thức “bàng môn tả đạo” để phê phán báo cáo Vallely. Chúng bao gồm những đòn “dưới thắt lưng” như nói ông Vallely từng là cựu binh Thủy quân lục chiến đánh nhau ở Việt Nam, rằng cả hai tác giả đều không có bằng cấp gì cao nên không xứng làm chuyên gia viết báo cáo về giáo dục. Chỗ này tôi không hiểu lắm cách suy nghĩ của GS Koblitz vì giả thử trường University of Washington của ông mời được Bill Gates đến nói chuyện về mã hóa (cryptography, chuyên môn chính của GS Koblitz) trong hệ điều hành Windows, không lẽ ông sẽ lớn tiếng bảo Bill Gates đâu có bằng cấp gì mà mời đến nói chuyện?

Lẽ ra để phản bác những lập luận của một bài viết, tác giả nên phân tích đúng sai của từng lập luận, để cuối cùng có nhận định tổng quát về bài viết đó. Đằng này báo cáo Koblitz dường như “chỉ thấy cây chứ không thấy rừng”. Chẳng hạn, báo cáo Vallely nêu một cách khái quát tầm vóc của cuộc khủng hoảng giáo dục đại học ở Việt Nam, trong đó chuyện Intel chỉ tuyển được một tỷ lệ nhỏ sinh viên tốt nghiệp đáp ứng yêu cầu của họ là một ví dụ minh họa; báo cáo Koblitz lại dựa vào đó để tìm cách chứng minh báo cáo Vallely bóp méo sự thật.

Đọc xong báo cáo Koblitz có lẽ nhiều người cảm nhận nhiều hiệu quả khác nữa như hệ thống giáo dục Mỹ không có gì hay để bắt chước, đại đa số sinh viên Mỹ dốt lắm nhưng khổ nỗi chúng không liên quan gì đến mục đích bài viết.

Nhưng theo tôi hiệu ứng nguy hiểm nhất là làm cho nhiều người lầm tưởng nền giáo dục Việt Nam không có vấn đề gì trầm trọng, những “khó khăn” mà hệ thống giáo dục Việt Nam đang mắc phải cũng giống như ở các nước đang phát triển khác. Đây là điều đại nguy hiểm nếu báo cáo Koblitz làm nảy sinh suy nghĩ như thế ở những người có thẩm quyền trong ngành giáo dục. Suy nghĩ này sẽ bao gồm các lập luận khác có trong báo cáo Koblitz như 25% chương trình học dành cho các môn chính trị thì đã sao đâu, nếu sinh viên ra trường không xin được việc làm thì đó là lỗi của khu vực kinh tế tư nhân chưa đạt đến trình độ thu hút được nhân tài, việc Việt Nam không có bằng phát minh nào được cấp giấy chứng nhận cũng không phải lỗi ở các trường đại học mà do khu vực tư nhân đấy.

Có hay không hiệu ứng này? Tôi nghĩ là có. Và đó là điều nguy hiểm, nhất là khi mọi người đều hiểu nền giáo dục Việt Nam đang trải qua những thử thách nghiêm trọng, cần công sức của tất cả để tìm một lối ra khả dĩ nhất, nhanh nhất và ít tốn kém nhất.

Nguy hiểm hơn là trong 8 khuyến nghị báo cáo Koblitz đưa ra, hầu như tất cả đều dính đến chuyện tiền nong, như thể chỉ cần có tiền là giải quyết khó khăn cho giáo dục Việt Nam. Nó sẽ cổ xúy cho lối suy nghĩ cần vay tiền nhiều hơn nữa từ các định chế tài chính quốc tế như World Bank đổ cho ngành giáo dục hay nâng học phí lên cao nữa hay đẩy mạnh hơn nữa chuyện “xã hội hóa” giáo dục – xem đó như những biện pháp căn bản để giải quyết chuyện cải cách giáo dục.

Tôi không coi báo cáo Vallely như một công trình nghiên cứu đúng nghĩa bởi nó chỉ là một bản báo cáo nhanh (Memorandum) gởi cho các thành viên Mỹ trong Nhóm đặc nhiệm về giáo dục đại học như những ý kiến tham khảo. Chính các tác giả cũng nói đây là một phân tích chủ quan (opinionated analysis).

Cải cách giáo dục Việt Nam cần nhiều hơn thế. Nhưng cái cần nhất là một cách nhìn thẳng vào vấn đề, vào những yếu kém của chính chúng ta chứ đừng lẩn tránh dưới các lập luận quanh co kiểu báo cáo Koblitz.

Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2009

Tiền lệ

Tiền lệ

Chỉ thị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “giao UBND TP. Hà Nội chủ trì, cùng Bộ Khoa học và Công nghệ có hình thức xử lý thích hợp, đúng quy định của Đảng và Nhà nước đối với việc tự giải thể của Viện Nghiên cứu phát triển (IDS) và những phát biểu thiếu tinh thần xây dựng của một số cá nhân thuộc IDS” đã vượt ra khuôn khổ Quyết định 97 vì đã tạo ra một tiền lệ mà các bộ phận khác trong bộ máy hành chính có khả năng bắt chước làm theo.

Ở đây tôi không đề cập đến Quyết định 97, chuyện IDS tự giải thể để phản đối.

Chỉ xin lưu ý đến khả năng lan tràn hiện tượng yêu cầu “xử lý thích hợp” mỗi khi có “những phát biểu thiếu tinh thần xây dựng”.

Lấy ví dụ báo chí mà một trong những chức năng quan trọng là tạo diễn đàn cho người dân nói lên tiếng nói của họ. Đã là diễn đàn, tức sẽ có những tiếng nói phê bình các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, những trường hợp nhũng nhiễu của bộ máy hành chính, những câu chuyện bất công nơi này nơi khác. Với tiền lệ nói trên, rất dễ xảy ra chuyện người đứng đầu một địa phương, một ngành nào đó ra chỉ thị yêu cầu một cấp hành chính nào đó bên dưới “có hình thức xử lý” với những phát biểu mà họ cho là “thiếu tinh thần xây dựng” trên mặt báo. Trong quá khứ chuyện này đã xảy ra nhưng khá hiếm hoi và đa số các cấp lãnh đạo chọn con đường “im lặng là vàng” để lãnh tránh công luận. Nay, một khi họ thấy có thể xử dụng bộ máy hành chính để buộc các ý kiến “thiếu tinh thần xây dựng” phải im tiếng, khả năng họ sẽ sử dụng tiền lệ này, công cụ mới này là rất cao.

“Thiếu tinh thần xây dựng” làm một cảm nhận mang tính chủ quan vì không thể lượng định bằng các tiêu chí cụ thể. Phát biểu của học sinh với thầy hiệu trưởng về chuyện trường không có phòng vệ sinh đúng tiêu chuẩn, với người thầy chăm lo cho học sinh thì bình thường nhưng với một ông vừa nhận tiền “lại quả” từ nhà thầu xây dựng phòng học chắc chắn sẽ bị nhìn nhận như mũi dùi chỉa thẳng vào ông – thế là “thiếu tinh thần xây dựng”, phải giao cho giáo viên chủ nhiệm “xử lý”.

Tiền lệ này cũng có khả năng triệt tiêu mọi nỗ lực chống tham nhũng trong từng đơn vị, cơ quan nhà nước bởi nhãn “thiếu tinh thần xây dựng” sẽ được người đứng đầu chuẩn bị sẵn để dán cho bất kỳ ai phát biểu chống đối. Nó cũng làm nản lòng những phát biểu cải tiến quy trình làm việc, những sáng kiến tại các công sở…

Viết đến đây, tôi phải đọc lại thật kỹ những gì đã viết, xem nó có “thiếu tinh thần xây dựng” không! Thấy nó phản ánh đúng suy nghĩ của mình là góp ý xây dựng bộ máy hành chính của nước nhà, sao cho đừng để tạo ra một tiền lệ có thể bị hiểu nhầm từ một chỉ thị mà cấp dưới có thể lợi dụng. Như vậy, nó hoàn toàn mang tính xây dựng đấy chứ.

Hóa ra một tác dụng khác của chỉ thị này và những chủ trương tương tự là đẩy con người vào thế phải “nhìn trước trông sau” mỗi khi muốn nói lên tiếng nói của mình trước những vấn đề của xã hội – và chắc chắn dần dà mọi người sẽ chọn con đường im lặng cho khỏe thân – và đó là dấu chấm hết cho một xã hội bình thường, một đất nước bình thường.

Bài đăng phổ biến