Thứ Năm, 12 tháng 12, 2013

Chúng ta vừa giàu hẳn lên!

Chúng ta vừa giàu hẳn lên!

Năm ngoái mỗi người trong chúng ta đều giàu thêm chừng 150 đô-la Mỹ mà ít ai biết. Còn ai ở TPHCM thì thu nhập năm ngoái bỗng tăng thêm 400 đô-la Mỹ. Sở dĩ có điều lạ này là vì Tổng cục Thống kê (TCTK) có hai thay đổi quan trọng.



Nhân tiện giới thiệu luôn bài "Chuyện lương giám đốc":

http://www.thesaigontimes.vn/Home/diendan/goctoasoan/107112/Chuyen-luong-giam-doc.html

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2013

Chuyện vỉa hè

Chuyện vỉa hè
Kinh tế vỉa hè là một bộ phận rất quan trọng của nền kinh tế phi chính thức. Một số nghiên cứu trước đây cho rằng kinh tế phi chính thức, hiện bằng chừng 30% nền kinh tế chính thức, đóng vai trò là tấm bình phong che chắn bão tố, là tấm đệm giảm nhẹ những cơn khủng hoảng dội vào Việt Nam.
Các bạn ở nước ngoài thường nói, bên đó mà thất nghiệp thì dễ rơi vào khủng hoảng (nếu không có những dạng an sinh xã hội khác nhau). Bên mình, thất nghiệp nhiều, khó khăn cũng nhiều nhưng dù sao tình trạng bức bối cũng giảm nhẹ nhờ tham gia vào nền kinh tế phi chính thức (mà phương tiện thường là chiếc xe gắn máy đang bị một số ý kiến đòi dẹp). Thất bại trong kinh doanh chính  thức, người ta có thể ra vỉa hè buôn gánh bán bưng để sống đắp đổi qua ngày.
Nếu không có kinh tế vỉa hè, xã hội này phải đối diện với biến bao bất ổn, tệ nạn và xáo động.
Thế nhưng chính quyền các thành phố lớn dường như không hiểu; họ cứ đòi dẹp kinh tế vỉa hè mà thực chất chỉ dẹp kẻ cô thế, người gánh hàng rong.
Họ không chịu hiểu người dân đang tự xoay xở để sống và nhờ vậy họ bớt đi nhiều gánh nặng phải lo toan. Thế mà thỉnh thoảng cứ có những chiến dịch dẹp buôn bán lòng đường vỉa hè. Tại sao không tổ chức cho người ta buôn bán trong một chừng mực trật tự nhất định. Ngay cả ở New York vẫn có xe đẩy bán hotdog, vẫn có sạp báo vỉa hè. Ở Tokyo vẫn có những đường phố, chiều xuống, người ta cấm xe, để dân mua bán tràn xuống đường giao dịch thoải mái.
Đáng tiếc là các trường đại học kinh tế không ai chịu làm những nghiên cứu về kinh tế vỉa hè để tham mưu chính sách đúng đắn cho chính quyền. Tất cả đều xem số phận của người dân nghèo như con ve cái kiến, ưa đè bẹp lúc nào cũng được.

*                      *                      *
Nói chuyện nghiệp vụ báo chí, nhiều bạn thắc mắc, hai tin gần đây của tờ Tuổi Trẻ về vụ người bán hàng rong bị lực lượng trật tự đô thị phường 25 quận Bình Thạnh đánh (gồm tin “Lực lượng ủy ban phường không đánh người bán hàng rong” và tin “Nếu bị bóp yết hầu, người bán hàng rong đã chết”) có khách quan không, sao có vẻ như báo dành diện tích cho ông chủ tịch phường thanh minh quá nhiều.
Theo tôi, khi làm tin thì nhân vật phát biểu sao báo phải đưa như thế. Dù mình bức xúc gì đi nữa cũng không thể nhảy vào tin để bình luận, phê phán.
Tuy nhiên, hai tin trên báo Tuổi Trẻ có những thiếu sót về mặt nghiệp vụ, nên góp ý cho phóng viên. Tin đầu tiên khẳng định trên tít (Lực lượng ủy ban phường không đánh người bán hàng rong) mà không nói rõ ai nói, không để trong ngoặc kép là không được, không khách quan. Cả hai tin đều trích lời ông chủ tịch nói về một người thứ ba là anh Tính, người bán hàng rong mà không có câu nào phỏng vấn anh này cả là không sòng phẳng. Cho dù có dùng chấm hỏi để bày tỏ sự nghi ngờ phát biểu của ông chủ tịch cũng chưa đủ, lẽ ra phải cho người bán hàng rong hay ít nhất cũng là nhân chứng lên tiếng.
Cả hai tin đều đưa ra những chi tiết mà không làm rõ những chi tiết này là thiếu sót lớn. Đó là khi viết câu: “Ông Quý cũng cho hay tổ công tác đã dùng còng số 8 còng tay anh Tình, khống chế anh này để không tấn công tổ công tác nữa và đưa lên xe của UBND P.25” thì lẽ ra phóng viên phải đặt vấn đề, lực lượng trật tự đô thị hay bảo vệ dân phố có quyền sử dụng còng để còng tay công dân hay không, họ có quyền bắt giữ công dân để đưa về phường khi công dân không phạm tội quả tang nào hết là có đúng luật không.
Chi cần bổ sung chi tiết này và lời phát biểu của một nhân vật có thẩm quyền nào đó thì tin mới hoàn chỉnh và không tạo sự phản cảm ở người đọc. Bởi nói cho cùng làm báo là để đi đến cùng sự thật, trong đó tiếng nói người yếu thế phải được tôn trọng, phải được lắng nghe như tiếng nói của quan chức – bằng không làm báo để làm gì.
(Thêm các chi tiết phải làm rõ)
Phản ứng của quan chức mỗi khi có sự cố gì xảy ra là tìm mọi cách biến báo để chạy tội cho bản thân hay chạy tội cho cấp dưới. Do đâu mà có phản ứng này?
Lấy ví dụ ông chủ tịch phường 25 quận Bình Thạnh, lúc xảy ra vụ việc liên quan đến một người bán hàng rong được nhân chứng cho là bị lực lượng trật tự đô thị phường đánh, chắc ông không có mặt. Vậy thì khi nghe nhân chứng (có cả ảnh chụp) tố cáo thì cứ từ từ tìm hiểu để nhân đó chấn chỉnh lại nhân viên của mình (người quản lý nào cũng phải ứng xử như vậy). Vì sao ông này (theo báo Tuổi Trẻ) khẳng định lực lượng này của phường không đánh người bán hàng rong.
Tuy nhiên chính trong bản tin chối tội đó, có những chi tiết khẳng định cái sai của ông chủ tịch theo kiểu bất chấp pháp luật rất nguy hiểm. Đó là chi tiết “Phía UBND phường 25 đã yêu cầu bệnh viện cho xem giấy chứng thương của anh Tình khi anh này nhập viện để chữa trị vào tối 6-12”. Sao họ không hiểu hồ sơ bệnh án là thông tin riêng tư được pháp luật bảo vệ, UBND phường có quyền gì yêu cầu bệnh viện đưa cho xem; vì sao bệnh viện cũng dại dột nghe theo mà không biết bảo vệ quyền của bệnh nhân. Có lẽ cái tâm lý coi thường người nghèo, người thất thế đã lan rộng.
Chi tiết thứ nhì: “phía UBND phường 25 đã đề nghị Công an phường 25 vào cuộc điều tra, đồng thời mời cho được anh Tình để làm rõ vụ việc nêu trên”. Vì sao họ nghĩ chuyện “mời” công dân lên để làm việc là chuyện đơn giản và dễ dàng như thế?

*                      *                      *
Viết thêm một mẩu nữa về chuyện trật tự đô thị và bán hàng rong cho đỡ sự bức xúc. Ông chủ tịch phường cứ bao biện cho đội trật tự đô thị và bảo vệ dân phố rằng họ chỉ tịch thu chiếc xe của người bán hàng rong thôi chứ không đánh vì  “Nếu nhân viên đó mà bóp đúng vào huyệt yết hầu trên cổ anh Tình thì anh này đã chết rồi”!
Ít ai để ý đến chuyện liệu đội trật tự đô thị và bảo vệ dân phố hay thậm chí chủ tịch phường có quyền tịch thu tài sản của ai không? Liệu nhìn cảnh các đội này tịch thu bàn ghế, xe cộ, cả quang gánh của những người bán hàng rong từng diễn ra khá thường xuyên, có ai đặt câu hỏi, làm gì họ có quyền tịch thu tài sản của công dân?
Sở dĩ nói như vậy bởi có lẽ ai cũng còn nhớ khi được hỏi vì sao không tịch thu xe đua, đã có quan chức nói không có luật nào cho phép họ tịch thu xe dù xe đó được đem ra đua trái phép. Lúc đó đã có nhiều ý kiến tranh cãi gay gắt, yêu cầu phải sửa quy định để áp dụng biện pháp tịch thu phương tiện đua xe mới làm do dân đua xe sợ. Nhớ lại những lập luận lúc đó mà buồn:
-           Bộ luật Dân sự quy định rõ, quyền sở hữu là bất biến, đó là nguyên tắc tối cao.
-           Cơ quan công an không có quyền tịch thu, tiêu hủy xe, kể cả khi đó là phương tiện đua xe trái phép. Muốn tịch thu xe phải có phán quyết của toà án.
-           Vân vân và vân vân...
Thế mà tịch thu cái bàn, chiếc ghế, gánh hàng rong thì chẳng thấy ông luật sư hay đại biểu Quốc hội nào lên tiếng.
Phải khẳng định không ai được quyền tịch thu tài sản của công dân trừ phi có lệnh của tòa án.
Và cho dù có quyền tịch thu tài sản đi chăng nữa, cũng phải làm đàng hoàng, tức là ghi biên bản, có nhân chứng, có ghi hiện trạng tài sản, có niêm phong... Tại sao với dân nghèo, ai muốn làm gì thì làm?
Với những ai lập luận phải giữ kỷ cương để duy trì trật tự mỹ quan đô thị - chính cái cảnh xô đẩy, ném đồ của dân lên xe thùng mới là mất mỹ quan. Giả dụ có đồng tình với việc giải tỏa vỉa hè đi chăng nữa, tại sao không làm việc một cách văn minh, lịch sự, có lập biên bản và phạt nặng để họ sợ mà không lấn chiếm vỉa hè. Vì sao lại quẳng quật tài sản của dân một cách trái luật? Cho nên nói cách nào cũng sai lè ra cả. Tôi nghĩ chúng ta phải lên tiếng buộc chủ tịch phường phải xin lỗi người dân và cấp trên của ông ta phải lo mà chấn chỉnh cách làm việc của các đội trật tự đô thị. 


Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2013

Ứng xử thế nào với thực phẩm chức năng?

Ứng xử thế nào với thực phẩm chức năng?
Trước khi thử nhìn vào các vấn đề đặt ra (như có cho phép bác sĩ kê toa thực phẩm chức năng hay không) từ một cuộc hội thảo về thực phẩm chức năng được tổ chức vào cuối tuần trước, có lẽ phải cùng nhau khẳng định một số thực tế liên quan đến loại sản phẩm đặc biệt này.
Đó là luật lệ hiện nay cho phép quảng cáo thực phẩm chức năng nhưng phải ghi kèm câu “Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh”, chữ viết phải bảo đảm cỡ chữ Times New Roman 14. Dù đã có quy định rõ ràng như thế, nó vẫn bị vi phạm nhiều, chủ yếu là lập lờ nhằm để người đọc hiểu nhầm sản phẩm đó là thuốc chữa được những chứng bệnh, thậm chí là nan y.  Khảo sát người dùng, chắc chắn đa phần tin thực phẩm chức năng có giúp giảm cholesterol, hạ huyết áp, làm hết cơn chóng mặt... thì họ mới chịu bỏ tiền ra mua bởi vì đa số đắt hơn thuốc nhiều. Trong khi thuốc kê đơn bị cấm quảng cáo, trong bối cảnh người Việt lại có thói quen tự mua “thuốc” về để tự điều trị thì không lạ gì thực phẩm chức năng bán đầy các tiệm thuốc tây, lại chiếm vị trí trang trọng, diện tích lớn; quảng cáo thực phẩm chức năng mà cố ý làm cho người xem người nghe tưởng lầm nó là thuốc chữa bệnh lại tràn ngập các kênh truyền hình, các trang báo.
Bên cạnh đó, mặc dù hiện nay bác sĩ không được kê đơn thực phẩm chức năng nhưng việc tư vấn cho bệnh nhân mua thực phẩm chức năng như một dạng thuốc tây diễn ra thường xuyên ở các phòng khám dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhiều toa thuốc hay giấy ghi kèm toa thuốc lên đến hàng triệu đồng chủ yếu là do có kèm thực phẩm chức năng đắt tiền. Đó là bởi các doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm chức năng tìm mọi cách để các bác sĩ là người trung gian đưa sản phẩm của họ đến người dùng, kể cả tư vấn trên báo chí, trích hoa hồng giới thiệu thật cao...
Trong bối cảnh đó tổ chức hội thảo về thực phẩm chức năng để giúp mọi người hiểu rõ hơn về nó, để giới quản lý tìm cách quản lý nó tốt hơn là điều nên làm, nên khuyến khích. Tuy nhiên thiết nghĩ điểm mấu chốt đối với thực phẩm chức năng hiện nay ít nhất là tuân thủ những quy định đã có sẵn, kể cả về quảng cáo và cấm bác sĩ kê toa và không nên đưa ra những thông tin có thể làm người tiêu dùng hiểu nhầm thêm về thực phẩm chức năng. Những cách nói như kiểu chia người ta ra thành ba loại, “người khôn”, “người ngu” và “người dốt” với hàm ý người nào biết dùng thực phẩm chức năng để phòng bệnh mới là khôn ngoan là coi thường người tiêu dùng, là quảng bá một cách áp đặt cho thực phẩm chức năng.
Tương tự, khi một quan chức y tế tuyên bố tại hội thảo “bản thân chúng tôi một ngày cũng sử dụng 3 đến 4 loại” thì người đó đã làm sai chức trách một quan chức của ngành y tế, trong khi lẽ ra phải giữ cho mình một sự khách quan cần thiết, nhất là đối với những vấn đề chưa có kết luận sau cùng. Bởi một phát biểu như thế tại diễn đàn hội thảo có thể bị hiểu nhầm là quảng bá cho thực phẩm chức năng, tạo thêm sự hiểu nhầm ở người dùng.  
Khi được hỏi ở Úc hay nói chung ở nước ngoài, bác sĩ có được quyền kê toa thực phẩm chức năng cho bệnh nhân không, thực phẩm chức năng có được phép quảng cáo theo kiểu "chữa được bệnh tim mạch, cao huyết áp, giảm cholesterol" không và quan chức y tế nước ngoài có thể nào phát biểu tôi cũng dùng thực phẩm chức năng không thì GS Nguyễn Văn Tuấn thuộc viện Garvan, Đại học New South Wales của Úc khẳng định KHÔNG cho cả ba ý. Ông nói thêm “Bác sĩ không kê toa, không quảng bá cho mấy cái gọi là thực phẩm chức năng; công ty không được quảng cáo quá đà; bất cứ cái gì liên quan đến sức khoẻ, phải có câu ‘tư vấn thêm với bác sĩ’”.
Mới đầu tháng 11-2013, tờ New York Times đã có bài cho biết theo một nghiên cứu mới đây của Canada, khảo sát 44 loại “thuốc” ở dạng thực phẩm chức năng đang bán chạy nhất thị trường, nhiều loại không có chất như quảng cáo, hoặc có ở liều lượng rất thấp hoặc bị thay thế bởi bột đậu nành, bột mì hay bột gạo. Lẽ  ra hội thảo phải cung cấp những thông tin như thế thay vì có nhiều phát biểu quảng bá thêm cho thực phẩm chức năng, vận động cho bác sĩ được quyền kê toa thực phẩm chức năng và biến nó thành một gánh nặng cho bệnh nhân chứ không phải là chất bổ sung giúp tăng cường sức khỏe cho họ. Một yếu tố khác mà giới quản lý cũng phải tính đến là thực phẩm chức năng hiện là sản phẩm chủ lực của nhiều dạng kinh doanh đa cấp, đang lôi kéo nhiều người vào vòng xoáy của phương thức kinh doanh gây nhiều tranh cãi này.


Thứ Năm, 5 tháng 12, 2013

Lại chuyện GDP

Lại chuyện GDP

Hôm qua nhiều người bất ngờ khi nghe báo chí đưa tin GDP đầu người nước ta tăng 23% trong năm 2013, họ bảo trừ phi dân số nước ta giảm mạnh chứ làm gì ra con số 23% này!!! (Đấy là họ nói đùa vậy thôi).

Ở đây có một số điểm mà các bạn phóng viên trẻ có thể rút kinh nghiệm:

Thứ nhất, tăng trưởng GDP là đã khử lạm phát; ví dụ nói GDP năm nay tăng 5,4% là đã loại trừ yếu tố tăng giá rồi.

Thứ hai, GDP đầu người lại thường được tính theo GDP danh nghĩa, tức chưa khử lạm phát. Cho nên nếu một năm nào đó, lạm phát lên đến 25% cộng thêm tăng trưởng GDP 5% nữa (giả định dân số không tăng và tỷ giá không thay đổi cho đơn giản) thì năm đó GDP đầu người tính theo USD sẽ tăng vọt 30%.

Nhưng năm 2013, GDP ước tăng trưởng 5,4%, lạm phát 7%, dân số tăng khoảng 1%, tỷ giá hầu như không đổi thì GDP đầu người sẽ chỉ tăng DƯỚI 12%, không thể lên đến 23% được.

HÓA RA, hôm qua người ta chỉ công bố con số GDP danh nghĩa ước tính là 176 tỷ USD, GDP đầu người ước tính 1.960 USD chứ không ai nói nó tăng 23% cả. Con số tăng 23% là do báo chí tự lấy GDP đầu người được công bố năm 2012 rồi tự tính toán. Tính toán như vậy cũng tốt, làm báo là phải vậy.

Nhưng khổ nổi các phóng viên lại quên một chi tiết quan trọng. Năm 2012 Tổng cục Thống kê có thông tư quyết định chuyển năm cơ sở trong các tính toán thông kê từ năm 1994 qua thành năm 2010. Việc đó tác động đến toàn bộ các số liệu thống kê trong những năm vừa qua. Ngoài ra, nghe đâu người ta còn điều chỉnh GDP danh nghĩa thêm một khoản rất lớn (gần 300.000 tỷ đồng) vì các lý do khác nữa. Tóm lại, không thể lấy con số năm ngoái so với con số năm nay rồi kết luận nó tăng 23% vì con số năm ngoái nay đã thay đổi.

Số liệu chính thức của Tổng cục Thống kê cho thấy rõ điều này:

Theo Niên giám thống kê năm 2011 thì GDP theo giá hiện hành là:
2009: 1.658.389 tỷ đồng
2010: 1.980.914 tỷ đồng
2011: 2.535.008 tỷ đồng

Thế mà đến Niên giám thống kê năm 2012 thì GDP theo giá hiện hành nay là:
2009: 1.809.149 tỷ đồng
2010: 2.157.828 tỷ đồng
2011: 2.779.880 tỷ đồng

Đó là nói về giá hiện hành chứ không phải giá so sánh. Nó tăng rõ ràng như thế đấy.
Nguồn: http://gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5&ItemID=13760)

Còn năm 2012, lúc đầu thì Tổng cục Thống kê nói GDP theo giá hiện hành (nominal) là 2.950.684 tỷ đồng. Nay nó đã tăng lên thành 3.245.419 tỷ đồng.

Niên giám thống kê 2012 cũng cho biết GDP đầu người năm 2012 là 1.749 USD. Như vậy tính ra GDP đầu người năm 2013 chỉ tăng 12%, chứ đâu có chuyện tăng 23%.

Như vậy, từ câu chuyện nói trên có thể đưa ra một số nhận xét:
-          Mình mà về nhà nói với vợ, thu nhập chúng ta năm nay tăng 23% so với năm ngoái (tính bằng đô-la Mỹ đấy nhé) thì chắc chắn sẽ bị ăn đòn. Kể cả nói với hàng xóm, nói với các bà buôn gánh bán bưng, các ông chạy xem ôn thì càng bị đòn nhiều hơn nữa.
-          Số liệu thống kê ở Việt Nam thay đổi như chong chóng. Rất dễ bị nhầm.
-          Thế giới cũng bị nhầm theo, cứ tưởng thu nhập đầu người dân Việt Nam đang tăng nhanh; hèn gì các tổ chức thế giới như WB hay IMF hết lời khen ngợi.

-          Chính sách tỷ giá đang có hại cho người nghèo, làm lợi cho người giàu (chuyện này sẽ viết sau).

Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2013

Tự xuất bản – tại sao không?

Tự xuất bản – tại sao không?
Thấy thiên hạ tại các nước đua nhau tự xuất bản sách dạng ebook trên Amazon, tôi tự nhủ sao mình không thử xem sao. Quá trình tự xuất bản sách này có nhiều điều đáng chia sẻ.
Muốn xuất bản dĩ nhiên đầu tiên bạn phải có bản thảo sách. Tôi đã từng xuất bản ba cuốn sách về tiếng Anh theo dạng in trên giấy truyền thống, gồm "Chuyện chữ & nghĩa", NXB Trẻ năm 1997; "Tiếng Anh lý thú", NXB TPHCM năm 2000 và "Tiếng Anh theo dòng thời sự", NXB Trẻ năm 2008. Nay thử tái bản chúng theo dạng ebook xem sao. Cũng may, cuốn thứ ba vẫn còn lưu file nên khỏi đánh máy trở lại. Hai cuốn đầu in đã lâu nên không còn file, phải nhờ dịch vụ vi tính gõ lại từ đầu.
Sau đó là chọn nơi xuất bản. Có lẽ ai cũng biết Amazon (kdp.amazon.com), vừa là nơi bán sách, vừa là nơi giúp tác giả tự xuất bản sách điện tử để đọc trên thiết bị Kindle của họ. Một địa chỉ khác cũng khá phổ biến là Smashwords (www.smashwords.com). Ở Việt Nam hiện đã có nhiều nơi bán sách điện tử như Alezaa (alezaa.com) hay Ybook (ybook.vn) nhưng tất cả đều chưa có hệ thống giúp tác giả xuất bản sản tự động. Với Amazon hay Smashwords, quá trình xuất bản là hoàn toàn tự động, các bạn không cần phải gởi email liên lạc với ai, không cần nói chuyện bằng tiếng Anh với ai cả. Dĩ nhiên sách của bạn phải đáp ứng một số điều kiện do các nơi này đặt ra.
Điều kiện đầu tiên là định dạng (format) sách cuốn sách bạn sắp xuất bản. Lưu ý nguyên tắc đầu tiên là đơn giản, đơn giản và đơn giản. Càng đơn giản chừng nào càng dễ được chấp nhận chừng đó. Lấy ví dụ, sách điện tử được đọc trên đủ loại thiết bị, to có nhỏ có nên chắc chắn không có chuyện đánh số trang (thiết bị sẽ tự động gán số trang tùy theo kích cỡ màn hình); không có chuyện trình bày tên sách hay tên tác giả dưới chân mỗi trang hay trên đầu các trang. Font chữ càng ít càng tốt, co chữ lớn nhất (dù là tựa sách) cũng chỉ được đến 18.
Smashwords có cho phép các tác giả tải về cuốn hướng dẫn định dạng sách ebook mà bất kỳ ai muốn tự xuất bản đều phải đọc qua. Sách hướng dẫn khá dày nhưng nhìn chung cũng đơn giản với những quy tắc như không được dùng tab để thụt vào đầu dòng mỗi đoạn, không được nhấn enter (nhằm để xuống dòng) quá bốn lần (vì như thế sẽ tạo ra một trang trắng)... Sách không nên dùng các định dạng đặc biệt như đầu mỗi chương dùng chữ lớn (drop cap), gióng thẳng hàng các dòng chữ bằng bảng (table)... Việc tách bạch giữa các đoạn phải dùng chức năng tùy chỉnh của Word chứ không được làm thủ công.
Có lẽ các bạn đều đã biết sách điện tử có nhiều định dạng. Phổ biến nhất là epub (để đọc trên phần mềm iBooks mà máy iPad thường sử dụng) hay mobi, prc (để đọc trên máy Kindle hay phần mềm Kindle chạy trên nền Android, iOS...). Một ít người thích đọc ở dạng pdf hay dạng html. Sách Kindle mua trên Amazon thì thường có đuôi là azw. Vậy làm sao bạn có thể chuyển bản thảo sang đủ loại định dạng này?
Điều may mắn là bạn không cần làm gì hết. Với Smashwords, bạn chỉ cần chuẩn bị một file Word và một file ảnh bìa (jpg); với Amazon, bạn nên chuẩn bị file html (có sẵn trên Word, khi chọn Save as), hai nơi này sau đó sẽ tự động chuyển đổi sang mọi định dạng cho bạn. Ảnh bìa nên nhờ người có tay nghề trình bày cho đẹp, kích cỡ 1600x2400 pixels. Với Smashwords thì các file tải về không có khóa (có nghĩa dễ bị tung lên mạng cho sao chép chùa), với Amazon, bạn chọn có khóa hay không khóa, tùy ý. Smashwords có lời khuyên rất thực tế là, hãy lo tác phẩm của bạn bị rơi vào quên lãng hơn là lo chuyện bị ăn cắp, bị sao chép lậu!
Kinh nghiệm của tôi trong chuyện sao chép là Smashwords nói đúng. Trừ phi tác phẩm của bạn là một kiệt tác, ít ai nghĩ đến chuyện phát tán nó lên mạng. Hay nói cách khác, việc tác phẩm của bạn bị sao chép trên các diễn đàn là một lời khen tặng sách mà không nhà phê bình nào có thể so sánh được. Gặp trường hợp đó, bạn nên gởi thư đến diễn đàn đang cho tải miễn phí sách, tất cả theo kinh nghiệm của tôi, đều gỡ ngay sách bị sao chép lậu. Ngược lại, cả hai nơi Amazon và Smashwords đều bắt bạn phải cam kết bạn là người chủ sở hữu bản quyền tác phẩm muốn xuất bản trước khi chấp nhận (việc cam kết này đơn giản là lời tuyên bố copyright ở trang sách đầu tiên mà thôi).

*                      *                      *
Sau khi đã chuẩn bị xong bản thảo, đăng ký tài khoản ở Smashwords hay Amazon, bạn vào và thao tác theo hướng dẫn trên màn hình. Lần lượt từ gõ tên sách (cứ gõ tiếng Việt có dấu), miêu tả tóm tắt sách (nên chuẩn bị trước, một bản ngắn một bản dài), định giá bán (tùy ý nhưng nên chọn giá thấp dễ bán nhiều sách hơn là chọn giá cao), tỷ lệ cho phép tải về để đọc miễn phí trước, các định dạng muốn chuyển đổi (nên bỏ bớt các định dạng rtf hay txt vì vấn đề bản quyền). Sau khi tải lên hình bìa và file bản thảo (ở dạng Word – Smashwords; dạng html – Amazon), bạn chỉ cần chờ ít phút cho phần mềm của họ chuyển đổi và ô là lá, sách của bạn đã được xuất bản (với Amazon thì phải chờ từ vài tiếng đến vài ngày).
Thật ra đa phần các bạn tự xuất bản lần đầu tiên sẽ không được suôn sẻ như thế. Bị dính một lỗi định dạng nào đó thì phần mềm của các nơi này sẽ từ chối và thông báo cho bạn chỉnh sửa. Nếu kiên nhẫn, trước sau gì cũng thành công. Một khi đã xuất bản thành công trên Smashwords, sách của bạn cũng được tự động phân phối trên các kênh của Apple iBookstore, Barnes & Noble, Sony, Kobo, thậm chí của Amazon nữa...
*                      *                      *
Cái cảm giác xuất bản một cuốn ebook trên mạng, rồi ngồi chờ người vào mua là một cảm giác... khó quên. Smashwords có chức năng thông báo tự động bằng email bất kỳ lúc nào có người vào mua sách. Thật không có gì vui bằng nhận thư báo có người vừa chịu khó đăng ký account ở Smashwords, rồi chịu khó tìm cho ra sách của mình, và can đảm gõ số thẻ tín dụng vào (thật ra hoàn toàn yên tâm vì Smashwords giao cho Paypal lo chuyện thanh toán) để tải sách của bạn về đọc (để yên tâm hơn nữa bạn cứ mua bằng Paypal, tức không phải khai số thẻ tín dụng). Vấn đề hình như không phải là chuyện tiền bạc mà là cái cảm giác tác phẩm của mình được một ai đó chịu bỏ tiền ra mua để đọc! Ngồi nhìn hộp thư email báo kính cong, kính cong... con số sách bán được nhảy lên từng giờ là một trải nghiệm đáng nhớ.
Tuy nhiên Smashwords cho biết đa số tác giả sẽ không có được cảm giác này. Bởi đâu dễ gì người ta biết bạn vừa xuất bản sách trên mạng. Thế là phải tìm cách phương thức “tiếp thị” cho sách của bạn. Đến đây mới thấy sự lợi hại của các mạng xã hội như Facebook giúp lan tỏa tin sách vừa in. Tác giả nào không có Facebook, không có blog, không có Google Plus, xem như thua.
Một cách quảng bá sách mới in là tặng sách cho bạn bè để nhờ đó truyền miệng rộng ra. Smashwords cho phép bạn tạo ra những coupon (phiếu) tặng sách, bạn có thể chọn giảm giá đến 100% (tức miễn phí hoàn toàn), chọn thời gian giảm từ vài ngày đến cả tháng, rồi thông báo cho bạn bè biết mã số để họ vào và tải sách về, cũng từ Smashwords.
Cuối cùng, dù chuyện tiền bạc không quan trọng vì chắc chắn bạn sẽ không thu được bao nhiêu nhưng có lẽ ai cũng tò mò muốn biết. Smashwords chia cho tác giả đến 75% doanh thu, họ chỉ lấy 25% tiền hoa hồng; Amazon thì lấy mạnh tay hơn, chỉ chia cho các tác giả ở ngoài nước Mỹ 35%, họ lấy đến 65%. Smashwords trả theo quý, tức đến hết quý họ mới trả cho tác giả một lần và trả bằng Paypal. Bạn phải có account ở Paypal để nhận tiền và tiền này dù có thể chuyển về tài khoản ngân hàng hay tài khoản thẻ tín dụng, chắc ít ai chuyển mà dùng để mua đồ trên mạng. Rất nhiều nơi bây giờ nhận thanh toán bằng Paypal. Amazon thì đợi đủ 100 đô-la Mỹ thì họ sẽ chuyển séc cho bạn nếu bạn ở bên ngoài nước Mỹ. Chưa hết, trước khi chi trả cả hai đều khấu trừ thuế thu nhập cá nhân giùm cho chính phủ Mỹ, lên đến 30% thu nhập!
Chuyện hy vọng làm giàu nhờ xuất bản sách điện tử coi như quên đi thôi. Có thể tiền thu về chưa đủ trang trải chi phí nhờ gõ bản thảo, trình bày bìa sách! Nhưng niềm vui chia sẻ sách với bạn bè cũng đáng công sức bỏ ra. Cứ thử tự xuất bản xem sao. Tại sao không?

Link đến các sách:

Tám chuyện tiếng Anh (Smashwords), (Amazon), (Alezaa)
Tiếng Anh lý thú (Smashwords), (Amazon), (Alezaa) 
Chuyện chữ & nghĩa (Smashwords), (Amazon), (Alezaa)

Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

The power of bargain

The power of bargain
Do a lot of people know that out of a price tag of $22.12 for a pair of jeans sold in Britain, just 90 cents goes to cutting and making the jeans, which includes labor and factory expenses such as rent, energy, and safety measures? I didn’t, until I read a report by Bloomberg on the cost of garment production in Bangladesh in 2013.
So I have my doubts when American Ambassador to Vietnam, David Shear tried to sell the Trans-Pacific Partnership, a free trade agreement that the U.S., Vietnam and 10 other countries are negotiating, to the Vietnamese people. “Vietnam will benefit greatly from expanded access to the U.S. and other markets as the TPP reduces tariffs in several key export areas,” Mr. Shear told Can Tho University students last Thursday.
Pure logic tells us that economic benefits shall be proportional according to the assigned role each country plays in the globalized trade. The price breakdown for a pair of jeans reflects this proportional benefit quite well. But more on that later.
The Bloomberg garment report was made in response to the worst labor accident in 2013 when 1,129 workers were killed and at least 1,500 more were injured as the Rana Plaza garment factory they worked in collapsed on April 24 in Bangladesh. After the accident, voices were raised to demand more corporate accountability. Fashion brands, apparel producers and retailers promised to take responsibility for what happens in the factories that make the clothing they sell. But despite all the public outrage, people tend to forget that all required improvements in the working conditions demanded of the factories were squeezed out of the 90 cents the factories get from making a pair of jeans. “Let us earn those few cents, and nobody has to die while making basic jeans,” factory owner Tipu Munshi was quoted by Bloomberg as complaining.
Negotiators to free trade agreements like the TPP realize the situation only too well. That’s why, under pressure from their own consumers, developed countries like the U.S. demand poorer countries like Vietnam to treat its workers better in exchange for greater market access. But again, somehow Vietnam has to manage treating its workers better with the same 90 cents it gets.
Getting back to Mr. Shear’s remarks, he’s right in saying that “expected gains are more clear, can be roughly estimated, and generally occur in existing sectors, such as footwear and apparel, where Vietnam is already competitive”. The TPP can help Vietnamese garment makers ignore bids from non-member competitors from Bangladesh or China, thus avoiding the race to the bottom normally seen in the global apparel industry. Without the TPP, Vietnamese garment makers might have to lower their bids to win contracts. But their share from the supply chain in this industry remains a pittance compared to other stages on the value chain.
So the best way to sell the TPP to Vietnamese people is neither a promise of enormous gains in GDP growth or bigger export volumes nor a promise of more foreign investment. It should be a bigger share of the pie. Somehow, that is sort of a “mission impossible” task but increasing the share that garment workers in particular or other players in the globalization game can get is the only way to persuade people of the sustainability of free trade.
Independent safety inspections of garment and footwear factories are useful but not crucial in guaranteeing the workers’ safety. If they get more than the 90 cents, they will have bigger power of bargain and they will take care of their own safety measures.
People might wonder why middlemen whose job is to collect and pass orders from retailers on to garment makers earn five times as much as the workers who make the garment. And more importantly, do negotiators at free trade agreement negotiations ever discuss narrowing the gap?
Of course, they don’t. Negotiators always try to snatch the biggest share for their own businesses and one would be so naive as to thinking otherwise. And intellectual property rights are among the tools that people use to maintain their edge over others.
Pressure from the consumers, therefore, should not focus on working conditions. It should be more specific: how much is paid towards those who make the clothes or shoes they wear. If the right price is paid, the working conditions will take care of itself. But don’t ask me how the fruit of globalization can be divided fairly. It can’t and thus, we have the contradictory nature of free trade agreements, the TPP included.




Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

Toàn cầu hóa và iPod

Toàn cầu hóa và iPod

Ai làm ra chiếc iPod? Thật ra trả lời câu hỏi xem chừng quá dễ này lại không đơn giản. Tờ New York Times dựa vào đề tài này để viết một bài dài về thực tế câu chuyện toàn cầu hóa. Đầu tiên, tờ báo nhắc khéo: “Here’s a hint: It is not Apple” và giải thích liền: “The company outsources the entire manufacture of the device to a number of Asian enterprises, among them Asustek, Inventec Appliances and Foxconn”. Outsource là một từ rất thông dụng trong những năm gần đây, đến nỗi nhiều người dùng nguyên văn tiếng Anh sau khi giải thích một lần ở đầu bài viết (gia công, chuyển một số công đoạn sản xuất hay khâu dịch vụ ra nước ngoài). Ở đây Apple outsource toàn bộ việc sản xuất cho các công ty nước ngoài, chủ yếu ở châu Á.

Thế nhưng các công ty này cũng chỉ làm động tác lắp ráp chiếc iPod - “But this list of companies isn’t a satisfactory answer either: They only do final assembly” - nên họ cũng không phải là nhà sản xuất chính chiếc máy nghe nhạc nổi tiếng có đến 451 linh kiện này. Tờ New York Times đã sử dụng nghiên cứu của trường Đại học University of California để kết luận: “Their study offers a fascinating illustration of the complexity of the global economy, and how difficult it is to understand that complexity by using only conventional trade statistics”. Quan trọng là phần sau: không thể hiểu được tính phức tạp của nền kinh tế toàn cầu nếu chỉ sử dụng số liệu thống kê thương mại truyền thống.

Chiếc iPod video dung lượng 30 GB có giá 299 đô la, trong đó “The most expensive component was the hard drive, which was manufactured by Toshiba and costs about $73”. Như vậy ổ cứng 30 GB này do Toshiba sản xuất, là đắt nhất; các linh kiện chính khác gồm màn hình (20 đô la), con chip video (8 đô la), con chip điều khiển (5 đô la). Có lẽ ít người biết rằng “the final assembly, done in China, cost only about $4 a unit”. Điều đáng ngạc nhiên là khi tính toán cán cân thương mại Mỹ-Trung, trị giá chiếc iPod xuất từ Trung Quốc đi ngược vào Mỹ được tính lên đến 150 đô la, góp phần đáng kể vào thâm hụt mậu dịch giữa Mỹ với Trung Quốc.

Theo logic thông thường, “$73 of the cost of the iPod would be attributed to Japan since Toshiba is a Japanese company”. Nhưng khổ nỗi trong thời đại sản xuất toàn cầu hóa ngày nay, “Toshiba may be a Japanese company, but it makes most of its hard drives in the Philippines and China”. Tương tự hai con chip video và chip điều khiển mới đầu tưởng phải tính cho Mỹ vì do các công ty Mỹ cung cấp nhưng thực tế họ sản xuất chúng tại Đài Loan! Các nhà nghiên cứu vò đầu bứt tai mà than rằng: “How can one distribute the costs of the iPod components across the countries where they are manufactured in a meaningful way?”. Distribute ở đây là phân bổ.

Thật ra, ngày nay việc tính toán số liệu thống kê thương mại dựa vào cái gọi là “giá trị gia tăng” ở mỗi công đoạn sản xuất bằng cách xác định giá trị đầu vào và giá trị đầu ra của mỗi công đoạn. Khi đó, “The difference between the cost of the inputs and the value of the outputs is the “value added” at that step, which can then be attributed to the country where that value was added”.

Theo tính toán của các tác giả, “The $73 Toshiba hard drive in the iPod contains about $54 in parts and labor. So the value that Toshiba added to the hard drive was $19 plus its own direct labor costs”. Như vậy nếu trừ đi 54 đô la đầu vào (là linh kiện và công lao động của khâu trước) thì Toshiba chỉ tạo ra giá trị gia tăng 19 đô la, được tính cho Nhật Bản.

Những tưởng kết quả tính toán sẽ cho thấy người hưởng lợi nhiều nhất từ iPod là các công ty nằm khắp toàn cầu có tham gia vào các công đoạn sản xuất nhưng, bất ngờ thay, “The researchers estimated that $163 of the iPods $299 retail value in the United States was captured by American companies and workers, breaking it down to $75 for distribution and retail costs, $80 to Apple, and $8 to various domestic component makers”. Ngoài phần tính cho khâu phân phối, bán lẻ, Apple vẫn là công ty hưởng giá trị gia tăng cao nhất - đến 80 đô la vì “The bulk of the iPods value is in the conception and design of the iPod. That is why Apple gets $80 for each of these video iPods it sells, which is by far the largest piece of value added in the entire supply chain”. Apple hầu như không đụng tay vào khâu sản xuất nào nhưng vẫn hưởng phần bánh lớn nhất nhờ công nghĩ ra và thiết kế chiếc iPod. Và đó chính là “bí mật” của quá trình toàn cầu hóa ngày nay.

Tác giả bài báo kết luận: “Ultimately, there is no simple answer to who makes the iPod or where it is made”. iPod không phải là sản phẩm duy nhất, hàng loạt sản phẩm khác, như chiếc iPhone hay ngay cả món đồ chơi của con bạn cũng phải tuân theo quy luật: “The real value of the iPod doesn’t lie in its parts or even in putting those parts together”. Vấn đề ở chỗ làm sao nghĩ ra cách “kết nối” 451 linh kiện sản xuất khắp nơi với giá rẻ để thành một sản phẩm bán với giá cao hơn. Cho nên “[Apple] may not make the iPod, but they created it. In the end, that’s what really matters”.

Trích từ ba cuốn về tiếng Anh mới tái bản ở dạng ebook.



Bài đăng phổ biến