Thứ Bảy, 12 tháng 2, 2011

Các nhà kinh tế Việt Nam đi đâu cả rồi?

Các nhà kinh tế Việt Nam đi đâu cả rồi?

Việt Nam có bao nhiêu giáo sư, phó giáo sư kinh tế? Có lẽ rất nhiều. Thế nhưng lúc nền kinh tế trải qua những biến chuyển lớn như lần phá giá tiền đồng cuối tuần rồi, chẳng thấy ai đưa ra những phân tích, bình luận ra đầu ra đũa.

Công việc của các giáo sư, phó giáo sư là nghiên cứu bên cạnh giảng dạy. Nền kinh tế Việt Nam là một mảng đất màu mỡ cho nhiều nghiên cứu có giá trị trên bình diện quốc tế và những dịp như cuối tuần rồi là lúc các giáo sư kinh tế ứng dụng các công trình nghiên cứu của mình vào thực tế. Hầu như tất cả đều im lặng. Họ không có công trình nghiên cứu hay họ chưa thể công bố nghiên cứu của mình?

Tôi xin đưa ra một ví dụ. Khi Việt Nam điều chỉnh tỷ giá, nhiều ý kiến từ các nhà phân tích nước ngoài lo ngại tác động của việc điều chỉnh này lên lạm phát nhưng họ chỉ nói chung chung theo lý thuyết chứ không ai nghiên cứu sâu để đưa ra nhận định chính xác.

Mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát đã được nghiên cứu kỹ ở nước ngoài (gõ cụm từ exchange rate pass-through sẽ tìm thấy nhiều bài viết công phu). Dựa vào các nghiên cứu này, các nhà kinh tế Việt Nam hoàn toàn có thể lập công thức tính toán tỷ lệ ảnh hưởng từ tỷ giá được điều chỉnh lên lạm phát một cách dễ dàng. Tại sao không ai làm cả?

Một ví dụ khác. Suốt cả tháng nay trên bốn năm tờ báo khác nhau, “chuyên gia kinh tế cao cấp” Bùi Kiến Thành đưa ra những kiến nghị động trời như phải giảm lãi suất để chống lạm phát; Ngân hàng Nhà nước vì không vay của ai, không phải huy động vốn nên chi phí huy động vốn bằng 0, cho nên phải cho ngân hàng thương mại vay với lãi suất chừng 3%-4%, Nhà nước nên cho doanh nghiệp vay với lãi suất 0%.... Thế mà các nhà kinh tế trong nước im lặng hoàn toàn, không một ai lên tiếng chỉ ra cái nguy hiểm của lập luận này.

Hay câu nói của Thomas Friedman lại ứng nghiệm trong trường hợp này: “No one has ever washed a rented car”?

Cập nhật:

Đã có bài của anh Nguyễn Quang A - "Cẩn trọng với lời khuyên của cố vấn".

Thứ Năm, 10 tháng 2, 2011

Bao nhiêu phần trăm?

Bao nhiêu phần trăm?

Sáng nay Ngân hàng Nhà nước tuyên bố điều chỉnh tỷ giá. Mấy tiếng sau, các hãng tin và báo chí nước ngoài đưa tin đầy đủ nhưng lạ một điều mỗi báo đưa một con số phần trăm khác nhau.

Financial Times nói là 9,3% (The State Bank of Vietnam, the central bank, said on its website that it was cutting the official dong-dollar exchange rate from 20,693 to 18,932, a reduction of 9.3 per cent). (Câu này thì Financial Times viết nhầm rồi – lẽ ra phải là to 20,693 from 18,932 hay đảo ngược hai con số lại).

Reuters nói 8,5% (The State Bank of Vietnam dropped the dong's reference rate by 8.5 percent against the dollar and narrowed the currency's trading band to 1 percent from 3 percent on either side of that midpoint rate).

Sau đó bổ sung thêm con số 7% (The combined effect pulled the weak limit of the band down about 7 percent to 20,900 from 19,500, and brought official and black market exchange rates closer to alignment).

Bloomberg nói 7% ngay trong tít (Vietnam Devalues Dong by a Record 7%, Seeking to Curb Deficit).

Con số nào mới đúng?

Tỷ giá bình quân liên ngân hàng trước 1 USD ăn 18.932 đồng sau điều chỉnh thành 1 USD ăn 20.693 đồng thì đó là một mức điều chỉnh tăng 9,3% cho những người nắm đồng đô-la.

Hãng Reuters ngược đời nhìn từ phía người nắm tiền đồng, trước 18.932 đồng đổi được 1 USD nay phải 20.693 đồng mới đổi được 1 USD thì đó là một mức giảm 8,5% giá trị tiền đồng so với đô-la Mỹ.

Còn 7% là so sánh tỷ giá niêm yết của ngân hàng (đã cộng biên độ giao dịch) trước và sau điều chỉnh.

Theo tôi, không có con số nào đúng cả vì trong thực tế, đã lâu rồi, làm gì có chuyện 18.932 đồng hay 20.693 đồng hay thậm chí 20.900 đồng đổi được 1 USD! Nói đùa vậy thôi chứ coi bộ Reuters nói chính xác nhất. Ví dụ, tỷ giá từ 20.000 đồng/1 USD lên 40.000 đồng/1 USD thì chúng ta sẽ nói tiền đồng mất giá một nửa (50%) chứ đâu nói tiền đồng mất giá 100% (mất 100% là mất sạch rồi còn gì)! Hơn nữa, với những người chỉ có tiền đồng thì thấy nó giảm giá 8,5% so với đô-la Mỹ chứ làm gì có đô-la để nói nó tăng 9,3% như báo chí trong nước.


Thứ Hai, 7 tháng 2, 2011

Chọn lựa

Chọn lựa

Đọc các phân tích, bình luận, tuyên bố trên báo chí khắp nơi về những diễn biến trong hai tuần gần đây tại Ai Cập không làm chúng ta hiểu thêm vấn đề. Đó là bởi những quyền lợi phức tạp đan xen nhau đằng sau hậu trường.

Lấy ví dụ Mỹ. Sở dĩ Mubarak tồn tại suốt 5 nhiệm kỳ, cai trị Ai Cập trong 28 năm qua là vì Mỹ thấy ở ông ta một đồng minh tin cậy được để duy trì các lợi ích của Mỹ tại khu vực này, như ngăn chận làn sóng Hồi Giáo cực đoan, chủ trương hòa hoãn với Israel… Bởi thế, Mỹ từng bỏ lơ yếu tố độc tài, tham nhũng, lạm quyền của Mubarak để đổi lại cái gọi là ổn định tình hình.

Một khi làn sóng dân chủ dậy lên, người dân tràn xuống đường, đòi Mubarak ra đi, thoạt tiên Mỹ nương theo làn sóng này với những tuyên bố đại loại Mubarak phải từ chức ngay đúng theo bài bản ủng hộ dân chủ. Nhưng chỉ vài ngày sau, Mỹ thay đổi thái độ, không còn thúc bách như trước. Đọc các bình luận trên báo chí bảo thủ ở Mỹ chúng ta sẽ hiểu ngay lý do. Nhiều ý kiến bình luận kiểu đó cho rằng nếu Mỹ bỏ rơi Mubarak, Ai Cập sẽ rơi vào vòng kiểm soát của nhóm Huynh Đệ Hồi Giáo, là phe phái được cho là có mối quan hệ mật thiết với Hamas, Iran và các phe phái cực đoan khác. Nói tóm lại họ lo sợ Ai Cập sẽ trở thành một nhà nước Hồi Giáo thần quyền như Iran.

Thế nhưng có lẽ cũng không cần quan tâm lắm đến chuyện chính trị phức tạp này. Điều mà ai cũng thấy qua vụ Ai Cập là: 1/Các chính thể độc tài không phải không hiểu được nguyện vọng của người dân nước họ; 2/Họ có hai chọn lựa, một là nghe theo nguyện vọng này để xây dựng một xã hội dân chủ bền vững, hai là đợi đến khi người dân lên tiếng, lúc đó có thể đã muộn.

Những tuyên bố mang tính nhượng bộ của chính quyền Ai Cập chứng minh cho điều đầu tiên. Ngay từ những ngày đầu khi người dân Ai Cập xuống đường, Mubarak tuyên bố không ra tranh cử nữa, cũng không còn chuyện Mubarak “nhường ngôi” cho con. Sau đó, lần lượt các nhân nhượng khác được đưa ra: tự do báo chí, sửa đổi Hiến pháp để bầu cử tự do, bỏ luật khẩn cấp, từng bị giới mật vụ lạm dụng để bắt bớ người vô cớ, không ngăn chận kiểm soát Internet nữa…

Dĩ nhiên, giới cầm quyền biết rõ đây là nguyện vọng bình thường và chính đáng của người dân Ai Cập nhưng chỉ khi chịu áp lực của cả triệu người dân giận dữ họ mới nhượng bộ.

Điểm chung của các chính thể độc tài ở Libya, Syria, Ai Cập, Yemen, Algeria và Tunisia và các nước lớn đứng đằng sau họ là không thèm đếm xỉa đến số phận người dân, coi việc người dân phải thuần phục họ là chuyện đương nhiên. Cho nên phần lớn đã chọn cách bỏ qua nguyện vọng của người dân nước họ.

Tusinia là trường hợp khi giới cầm quyền chịu nghe theo thì đã muộn. Và ở Ai Cập, dù tình hình có chuyển biến như thế nào thì cũng đã muộn cho giới cầm quyền vì không đời nào người dân chịu quay về với xiềng xích nô lệ như trước.

Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2011

Vàng và hai cô gái

Vàng và hai cô gái

Thời buổi này nếu ai đó nói vàng chưa chắc là dấu hiện của sự giàu có, ắt chúng ta sẽ bảo họ khùng. Câu chuyện một người chết khát trong sa mạc trên lưng là túi vàng nặng trĩu không thuyết phục được ai vì đó chỉ là ngoại lệ.

Thế nhưng vàng hay tiền bạc đồng nghĩa với sự thịnh vượng là một trong những biện luận sai mà nhiều thời đại, xưa lẫn nay, đều mắc phải. Vào lúc cao trào trong thế kỷ 16, 17, những nước theo chủ nghĩa trọng thương cố gắng vơ vét vàng bạc, châu báu về cho nước mình càng nhiều càng tốt vì họ nghĩ rằng có vàng là có tất cả. Sức mạnh quân sự của quốc gia chỉ nhằm phục vụ cho ngoại thương một chiều, bán thật nhiều hàng hóa cho nước khác, thu về vàng bạc, mua hàng của nước khác càng ít càng tốt. Phải mất vài trăm năm người ta mới hiểu ra, ôm một đống vàng về cho ngân khố nhưng xã hội không có hàng hóa thì sự thịnh vượng chỉ là ánh hào quang bên ngoài của những thỏi vàng mà thôi.

Hiện nay người ta cho rằng Trung Quốc cũng đang áp dụng một dạng chủ nghĩa trọng thương trong chính sách kinh tế của mình. Trung Quốc biến mình thành đại công trường, sản xuất hàng hóa cho thế giới, dựa vào lợi thế công nhân giá rẻ để thu về thật nhiều… tiền, đến giữa năm nay, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã lên trên 2.600 tỷ đô-la Mỹ! Đánh đổi tài nguyên, sức lao động của người dân, bỏ lơ tác hại môi trường để thu về một đống tiền như thế, Trung Quốc lại phải đau đầu vì khối tài sản này đang trói tay họ trong nhiều chính sách tiền tệ. Ai nói chủ nghĩa trọng thương đã biến mất?

* * *

Kinh tế học có khá nhiều biện luận sai như thế vì có nhiều quy luật kinh tế trái ngược với suy luận lô-gích thông thường. Ví dụ theo lô-gích thông thường, một nông dân được mùa ắt phải vui mừng một thì khi nông dân cả một vùng, một nước được mùa ắt phải vui mừng gấp triệu lần. Nhưng không phải, nếu cả nước được mùa, giá bán nông sản sẽ sụt giảm nhanh chóng và thu nhập của nông dân sẽ bị ảnh hưởng tệ hại. Hoặc một ví dụ khác, trong thời buổi kinh tế khó khăn, tiết kiệm chi tiêu, dành dụm cho những ngày thiếu thốn là suy nghĩ quá đúng đắn – nhưng chỉ đúng ở trên bình diện cá nhân. Nếu cả xã hội đều đi theo hướng giảm chi tiêu thì chắc chắn khủng hoảng càng trở nên trầm trọng, không có lối thoát.

Bây giờ chúng ta hãy thử quan sát một trò chơi để thấy kinh tế học tràn đầy những nghịch lý như thế.

Giả thử có người bỏ ra một tờ 100 đô-la để bán đấu giá. Luật chơi là người trả giá cao nhất sẽ thắng, mua được tờ 100 đô-la này với giá đã trả; người trả giá cao thứ nhì thua và phải chịu mất khoản tiền ra giá. Đương nhiên đầu tiên sẽ có người trả 1 đô-la và ngay lập tức có người khác trả 2 đô-la, cứ thế hai bên sẽ đua nhau ra giá đến 99 đô-la (vì vẫn còn lời được 1 đô-la). Đến đây người ra giá 98 đô-la có hai chọn lựa, hoặc ngừng chơi, thua mất 98 đô-la hay ra giá 100 đô-la và hy vọng nếu thắng sẽ huề vốn. Nhưng sự đời không đơn giản, người kia cũng lập luận tương tự, nếu không ra giá tiếp, anh ta sẽ mất 99 đô-la, nhưng trả 101 đô-la lại lợi hơn vì chỉ chịu thiệt 1 đô-la thôi, nếu thắng. Đến đây, các bạn đã thấy tờ 100 đô-la có thể bán được với giá vài ba trăm là chuyện có thể xảy ra!

Người sáng suốt sẽ bĩu môi nói: ai khùng mà đi đấu giá dại dột thế! Đó chính là lý do vì sao các nhà kinh tế gia cứ cãi nhau suốt; kinh tế học thì có quy luật mà hành vi ứng xử của con người thì không. Chúng ta vẫn thường thấy cách “cứu nguy bàn thua trông thấy” như vụ bán đấu giá nói trên trong cuộc sống thường ngày: gắng rót thêm ngân sách vào những dự án thua lỗ hòng cứu vãn tình hình, bất kể chi phí ngày càng nặng thêm.

* * *

Một trong những câu chuyện thường được đem ra kể để minh họa cho cách biện giải sai trong kinh tế học là câu chuyện “kính cửa sổ bị ném vỡ”.

Một hôm con của người chủ tiệm tạp hóa chơi banh, bất cẩn đá vỡ kính cửa sổ. Các nhà kinh tế học xúm lại bàn tán: Giả thử tiền thay kính là 100 đô-la, tự nhiên một chuỗi lợi ích kinh tế đã diễn ra ngay khi kính bị vỡ và được thay. Tiệm bán kính này, người thợ lắp kính, rồi tiệm bán bánh hay cung cấp cho người thợ này, đến tận người nông dân trồng lúa mì bán cho tiệm làm bánh…

Có đúng thế thật không? Ai cũng thấy lập luận kiểu này là không đúng nhưng nó chính là cơ sở cho việc biện minh nhiều dự án tào lao nhất trên đời như dự án xây chiếc cầu Gravina Island Bridge trị giá 233 triệu đô-la ở Alaska để nối với đảo Gravina bé xíu chỉ có 50 người dân. Thậm chí nó còn được dùng để biện giải cho rằng chiến tranh là có lợi cho kinh tế, chiến tranh là lối thoát cho khủng hoảng kinh tế! Vấn đề của câu chuyện “kính cửa sổ” hay các dự án kích cầu trời ơi nằm ở chỗ người ta đã không tính đến thiệt hại của người chủ tiệm tạp hóa, cơ hội bán kính cho khách khác của người làm kính, cơ hội bán bột mì của người nông dân cho nơi khác, cơ hội dùng tiền dự tính chi cho dự án vào việc khác… Nói là dự án tào lao nhưng đặt cho nó cái tên hoàng tráng, ít ai còn nghĩ nó tào lao nữa.

* * *

Chắc ai cũng đã từng nghe qua câu chuyện hai người hàng xóm, thuê nhau đào hố. Một người thuê người kia đào một cái hố với tiền công là 1 tỷ đồng. Đào xong, người kia thuê lại người đầu lấp cái hố này lại cũng với tiền công 1 tỷ đồng. Cuối ngày, cả hai mệt nhoài nhưng hớn hở khoe nhau thu nhập của họ vào loại kỷ lục thế giới. Các nhà kinh tế học dùng câu chuyện này để chứng minh đo lường hoạt động kinh tế bằng GDP là không chính xác. Thế nhưng nếu hai anh chàng này sống ở Việt Nam, sẽ có nhiều rắc rối cho họ chứ không phải chơi. Thu nhập cá nhân lên đến 1 tỷ đồng, ắt phải nộp thuế, bất kể chi phí của anh ra sao. Và thật ra, những anh chàng này cũng đang hiện diện nhiều ở nước ta nếu quan sát cách thiên hạ đào hố lên, lấp hố xuống, rồi lại đào hố lên để lấp hố xuống. Thuế thu nhập cá nhân thì không nhưng tính vào tăng trưởng GDP là có cả đấy.

Cuối cùng xin kể một biến thể của câu chuyện này. Người ta thấy hai cô gái tóc vàng hoe, cô đi trước đào hố lên, cô đi sau lấp hố lại, cả hai làm việc miệt mài, không biết mệt. Các cô gái tóc vàng hoe thường bị “văn học dân gian” đem ra chế diễu trí thông minh tỷ lệ nghịch với vẻ đẹp của họ. Ở đây biết đâu họ đọc được câu chuyện hai người hàng xóm bèn bắt chước nhưng làm sai? “Không phải”, một cô nói. “Bọn em có ba người lận. Đứa đầu đào hố, đứa giữa gieo hạt, đứa cuối lấp hố. Nhưng hôm nay đứa giữa bị bệnh”!

Nhưng đừng kể câu chuyện này cho dân Việt Nam chúng ta nghe. Bởi chuyện tương tự trong nền kinh tế chạy theo chỉ tiêu và thành tích không phải là hiếm nên không có gì đáng cười cả.

Thứ Tư, 15 tháng 12, 2010

TPHCM xây đường sắt cao tốc?

TPHCM xây đường sắt cao tốc?

Hai hôm nay nhiều tờ báo đưa tin Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) hỗ trợ 1,1 tỷ USD cho hai dự án đường sắt cao tốc tại TPHCM. Dù cách rút tít khác nhau nhưng hầu như bản tin các báo đều có câu này: “ADB sẽ cung cấp 540 triệu đô-la cho một dự án trị giá 1,4 tỉ đô-la để xây dựng đường sắt cao tốc thứ hai tại Thành phố Hồ Chí Minh, và một khoản bổ sung trị giá 636 triệu đô-la cho một dự án có giá trị 1,6 tỉ đô-la để xây dựng đường cao tốc tới phía nam của thành phố.”

Trời đất! TPHCM xây đường sắt cao tốc từ bao giờ mà mình không biết, nay có thêm đường sắt cao tốc thứ hai nữa.

Bởi nhiều báo cùng viết như thế nên tốt nhất là kiểm tra thông tin chính thức từ ADB và chẳng cần mất nhiều công sức cũng phát hiện ngay thủ phạm đưa tin sai chính là ADB hay chính xác hơn là người dịch bản tin từ tiếng Anh sang tiếng Việt cho ADB.

Nguyên văn câu trích ở trên trong bản tin tiếng Anh như sau: “ADB will provide $540 million towards a $1.4 billion project to construct a second mass transit line in Ho Chi Minh City, and an additional $636 million for a $1.6 billion project to construct a modern expressway to the south of the city”.

Hóa ra ADB tham gia cho vay vốn đối với hai dự án giao thông tại TPHCM, một là dự án tuyến metro thứ hai và một là dự án đường cao tốc Bến Lức-Long Thành.

Cái “mass transit line” ở đây thường được báo chí trong nước gọi bằng nhiều tên khác nhau như tuyến đường sắt đô thị, tuyến tàu điện ngầm nhưng thường dùng nhất là tuyến metro. Tuyến thứ nhất là Bến Thành-Suối Tiên do Nhật Bản cho vay tiền để làm. Tuyến thứ nhì là Bến Thành-Tham Lương, trị giá 1,4 tỷ đô-la, lần này ADB cho vay 540 triệu đô-la để làm.

Dịch thành “đường sắt cao tốc” nghe mệt tim quá.

Cái thông cáo báo chí này của ADB còn nhiều đoạn kinh khủng hơn nữa: “Hệ thống đường tàu điện ngầm dài 11,3 km sẽ kéo dài từ Bến Thành tới trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, gần siêu thị lớn nhất của thành phố, đi qua Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất tới Tham Lương. 9,3 km đường cao tốc sẽ chạy ngầm và 2 km đường kết nối từ đường ngầm lên trên mặt đất”.

Đọc đoạn này thì không cần đối chiếu với bản tiếng Anh, ai từng đến TPHCM đều biết là nó sai một cách ngớ ngẩn, kiểu “từ Bến Thành tới trung tâm thành phố, gần siêu thị lớn nhất của thành phố”. (Tiếng Anh là from Ben Thanh in central Ho Chi Minh City, near the city's largest market).

Ở đây có hai chuyện đáng nói. Tính chuyên nghiệp của các tổ chức quốc tế như ADB hay WB dạo này giảm sút, ít nhất ở khâu dịch thuật hay văn bản bằng tiếng Việt. Đây là điều đáng báo động vì biết bao nhiêu dự án, đánh giá, thẩm định, tư vấn chuyển từ Anh sang Việt sẽ tam sao thất bản, có khả năng gây tai hại lớn. Thử tưởng tượng một khuyến nghị đúng đắn bị dịch sai và triển khai sai thì tác hại sẽ như thế nào?

Cái thứ hai là phóng viên của chúng ta. Người ta đưa bản thông báo sai như thế thì phải tự mình tìm hiểu và sửa lại đi chứ, sao lại cứ thế đăng lên nguyên xi. Ngay cả cái câu tôi vừa trích dẫn ở trên vẫn được một số báo trích đăng nguyên vẹn. Lỡ có ai ở xa đọc xong, cất công đi tìm siêu thị lớn nhất thành phố ở trung tâm Sài Gòn thì tìm đâu ra!

Thứ Tư, 8 tháng 12, 2010

Lý giải các thách thức

Lý giải các thách thức

Như thông lệ, cùng với Hội nghị thường niên nhóm tư vấn các nhà tài trợ diễn ra đầu tuần này tại Hà Nội, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam. Báo cáo năm nay cho thấy bên cạnh mức độ tăng trưởng khá cao, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức.

Những thách thức này thật ra đã được các chuyên gia kinh tế trong nước nhận diện từ lâu. Tuy nhiên lý giải nguyên nhân của WB có nhiều điểm đáng lưu ý.Những bất ổn vĩ mô của Việt Nam hiện nay, theo WB, là đã khởi phát từ năm 2007, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, dòng vốn bên ngoài đổ vào nhiều chưa từng thấy, đã tạo nên sự bùng nổ tín dụng và bong bóng tài sản.

Cộng với những cú sốc từ bên ngoài như giá cả tăng vọt năm 2008, khủng hoảng tài chính năm 2009 và nợ công châu Âu năm 2010, Việt Nam hiện đang gánh chịu mức độ lạm phát cao nhất trong vùng Đông Á - Thái Bình Dương, tỷ giá chịu áp lực mạnh, dự trữ ngoại hối giảm, thị trường chứng khoán sụt giảm, trái phiếu chính phủ phải chịu lãi suất cao, thâm hụt tài khoản vãng lai lớn.

Về ngoại thương, báo cáo nhận định, trong khi thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là các nước phát triển, nguồn nhập khẩu lại chủ yếu đến từ Trung Quốc và Đông Á. Điều này giải thích vì sao Việt Nam đang xuất siêu với các nước phát triển nhưng lại nhập siêu với các bạn hàng láng giềng.

Lý do đằng sau, báo cáo nhận định, có thể là vì Việt Nam chưa kết nối được các mạng lưới sản xuất toàn cầu được triển khai tại Đông Á - Thái Bình Dương/ASEAN hoặc là vì các mạng lưới này, đặc biệt loại sản xuất hàng cần nhiều nhân công giá rẻ như may mặc, giày dép, lại kết thúc ở Việt Nam.

Mặc dù nhận định thâm hụt mậu dịch, sau khi tăng vọt ở thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, đang có chiều hướng giảm dần, kéo theo mức giảm thâm hụt tài khoản vãng lai, báo cáo cho rằng mức thâm hụt cao kéo dài cho thấy có vấn đề về cấu trúc. Thứ nhất, các khoản hỗ trợ phát triển chính thức khó lòng tăng nhanh như trong quá khứ; thứ hai, sản xuất dầu thô trong nước đã lên đỉnh và sẽ giảm trong những năm tới; thứ ba, dòng tiền đầu tư trực tiếp chuyển lợi nhuận về nước sẽ tăng cao trong những năm tới.

Về áp lực lên tỷ giá, WB nhận xét trong một thời gian dài, mỗi khi có chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do sau một thời gian, giới quản lý giải quyết bằng cách điều chỉnh tỷ giá hay nâng biên độ giao dịch. Cách làm đó đã tạo ra sự kỳ vọng các lần điều chỉnh trong tương lai nên tạo ra sự bất ổn trên thị trường.

Đặt câu hỏi “Vì sao tiền đồng chịu nhiều áp lực như thế?”, báo cáo không cho rằng đó là do tiền đồng được định giá quá cao so với các nước láng giềng. Thực tế, tiền đồng đã mất giá so với đô la Mỹ đến 9-10% trong năm nay và đến 15-25% so với đồng tiền các nước khác trong ASEAN. “Vì thế rõ ràng là chỉ phá giá tiền đồng mà không giải quyết các nguyên nhân gốc rễ thì cũng không phải là giải pháp hữu hiệu”, báo cáo nhận xét. Thâm hụt tài khoản vãng lai cũng không phải là nguyên nhân vì thâm hụt này về nguyên tắc đã được bù đắp bởi thặng dư tài khoản vốn.

Báo cáo cho rằng nguyên nhân nằm ở chỗ thặng dư tài khoản vốn lại không được dùng để tài trợ cho thâm hụt tài khoản vãng lai vì tình trạng đô la hóa. Một lượng lớn ngoại tệ được doanh nghiệp cất giữ ở tài khoản ngoài nước hay bên ngoài hệ thống ngân hàng và vì thế, vấn đề tỷ giá không chỉ do lạm phát cao, dự trữ ngoại hối thấp, thâm hụt mậu dịch... mà còn bởi sự suy giảm niềm tin của thị trường vào khả năng giải quyết những yếu kém này.

Về lạm phát, báo cáo cho rằng nên nhìn nhận ở góc độ lịch sử vì Việt Nam trong suốt thập niên qua đã duy trì mức lạm phát bình quân lên đến 8,8%. Điều đó phản ánh xu hướng người làm chính sách muốn duy trì tốc độ tăng trưởng cao hơn là chú trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Đó cũng là mâu thuẫn mà giới điều hành chính sách tiền tệ phải đối diện khi phải nhận lãnh hai nhiệm vụ trái ngược nhau: hỗ trợ kinh tế phục hồi và ổn định giá cả. Dĩ nhiên, khi buộc phải điều chỉnh chính sách liên tục như thế, kết quả ắt là một lập trường tiền tệ thất thường mà nhiều người đã phê phán là lúc thế này, lúc thế khác.

Ví dụ, sau khi kinh tế hồi phục vào cuối năm 2009, Chính phủ chủ trương thắt chặt tiền tệ; tháng 11-2009, lãi suất cơ bản được nâng 1 điểm phần trăm, tỷ giá được điều chỉnh 5,5%, việc bù lãi suất dần dần được chấm dứt. Nhưng đến quí 1-2010, khi tốc độ tăng GDP chỉ còn 5,8% và dưới áp lực của giới kinh doanh về lãi suất cao, chính sách lại được điều chỉnh vào giữa năm 2010 để hỗ trợ cho tăng trưởng, giới ngân hàng chịu áp lực phải giảm lãi suất. Đến nay, để chống lạm phát, lãi suất cơ bản được nâng lên 1 điểm phần trăm vào đầu tháng 11 nhưng khi lãi suất liên ngân hàng tăng vọt lên 18-20%, Ngân hàng Nhà nước lại can thiệp để giảm áp lực lên tính thanh khoản...

Vì thế, báo cáo cho rằng để chống lạm phát và ổn định tỷ giá, Chính phủ cần phát tín hiệu rõ ràng về cam kết tạo ra và duy trì sự ổn định vĩ mô trong ngắn hạn. Đi kèm theo đó là các chính sách cần thiết và thường xuyên cung cấp thông tin cho thị trường để tạo dựng niềm tin. Cũng cần bảo đảm sự nhất quán giữa các mục tiêu như lãi suất, hạn mức tín dụng, cung tiền... để tránh quán tính thay đổi chính sách liên tục.

Đáng tiếc là ngoài phần khuyến cáo ngắn nói trên, báo cáo hầu như không đưa ra được giải pháp nào khác cho những thách thức vĩ mô mà báo cáo đã dùng phần lớn nội dung để phân tích. Và đó thật ra cũng là mục đích của các tác giả bản báo cáo khi họ nhấn mạnh việc phân tích chủ yếu là để nhìn lại, điểm lại tình hình kinh tế của Việt Nam trong năm qua.

(Về đánh giá bản báo cáo, xem bài “Là hệ quả khó biện giải” của Vũ Thành Tự Anh trên TBKTSG)


Thứ Ba, 7 tháng 12, 2010

Cứng rắn trước sức ép

Cứng rắn trước sức ép

Sự đời không đơn giản.

Trước đây chúng ta thường nghe phương Tây rao giảng về kinh tế thị trường, về quản trị công ty, về việc nhà nước phải tránh xa việc kinh doanh, để cho thị trường tự điều tiết và tự quyết định.

Thế nhưng, mới đây, Standard & Poor’s hạ điểm xếp hạng tín dụng dài hạn của Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam chỉ vì Chính phủ Việt Nam theo họ, dường như không còn đứng ra giải cứu các tập đoàn kinh tế nhà nước nếu chúng lâm vào cảnh nợ nần.

Haha. Đúng là cháy nhà ra mặt chuột.

Như vậy trước đây các khoản vay của các tập đoàn nhà nước với các định chế tài chính nước ngoài được ký kết dễ dàng là do giới đầu tư nước ngoài yên chí có Chính phủ đứng đằng sau, lỡ có bề gì, khoản cho vay của họ cũng không sao. Đấy là nói về các khoản vay không có Chính phủ đứng ra bảo lãnh. Còn khoản phát hành trái phiếu quốc tế về cho Vinashin vay lại thì đương nhiên Chính phủ phải chịu trách nhiệm trả nợ.

Vì tâm lý ỷ lại đó, đã có những khoản tiền từ nước ngoài cho Vinashin vay vô tội vạ, không cần đếm xỉa gì đến quy trình thẩm định dự án vay một cách bình thường.

Thôi, chuyện đó không nói nữa. Vấn đề là với Vinashin, chắc chắn sức ép từ bên ngoài bắt tập đoàn này trả nợ đúng hạn trong thời gian tới sẽ rất cao.

Tháng trước Vinashin nói là sẽ đề nghị các chủ nợ hoãn phần thanh toán 60 triệu đô-la đến hạn vào cuối tháng 12 này thêm một năm. Nói vậy là không hiểu gì về quy trình làm ăn của các chủ nợ - họ đâu dễ dàng gì cho hoãn khơi khơi vậy vì còn phải giải trình với cổ đông, với giới điều hành thị trường, với cấp trên. Và tiền của họ, khoản nào ra khoản đó, làm gì có chuyện ưa hoãn là hoãn.

Khả năng họ không đồng ý là cao. Và hệ quả sẽ rất phức tạp, không chỉ với Vinashin.

Trong tuần tới chúng ta sẽ nghe biết bao phân tích, rằng từ nay doanh nghiệp Việt Nam đi vay nước ngoài sẽ khó khăn gấp bội lần, vay được thì cũng phải chịu chênh lệch lãi suất cao hơn trước nhiều. Rồi nhà đầu tư sẽ phát biểu theo kiểu, một lần bất tín vạn lần bất tin. Tất cả đều nhắm vào gây sức ép để Chính phủ đứng ra giải quyết nợ cho Vinashin lần này.

Nếu nhìn ngắn hạn, chắc chắn sẽ có những ý kiến khuyên Việt Nam nên giải quyết khoản nợ này chứ không thôi hậu quả lan ra sẽ rất đắt đỏ.

Nhưng theo tôi, nên cứng rắn trước mọi sức ép. Vinashin vay không có sự bảo lãnh của Chính phủ thì cứ để Vinashin chịu trách nhiệm. Nếu chủ nợ tuyên bố Vinashin default (mất khả năng chi trả), ảnh hưởng là có và sẽ rất lớn. Nhưng chẳng thà chịu đau lần này, nhân đó thắt lưng buộc bụng để vượt qua các thử thách còn hơn vì lợi ích ngắn hạn mà nhượng bộ sức ép.

Bài đăng phổ biến