Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2011

Vàng và hai cô gái

Vàng và hai cô gái

Thời buổi này nếu ai đó nói vàng chưa chắc là dấu hiện của sự giàu có, ắt chúng ta sẽ bảo họ khùng. Câu chuyện một người chết khát trong sa mạc trên lưng là túi vàng nặng trĩu không thuyết phục được ai vì đó chỉ là ngoại lệ.

Thế nhưng vàng hay tiền bạc đồng nghĩa với sự thịnh vượng là một trong những biện luận sai mà nhiều thời đại, xưa lẫn nay, đều mắc phải. Vào lúc cao trào trong thế kỷ 16, 17, những nước theo chủ nghĩa trọng thương cố gắng vơ vét vàng bạc, châu báu về cho nước mình càng nhiều càng tốt vì họ nghĩ rằng có vàng là có tất cả. Sức mạnh quân sự của quốc gia chỉ nhằm phục vụ cho ngoại thương một chiều, bán thật nhiều hàng hóa cho nước khác, thu về vàng bạc, mua hàng của nước khác càng ít càng tốt. Phải mất vài trăm năm người ta mới hiểu ra, ôm một đống vàng về cho ngân khố nhưng xã hội không có hàng hóa thì sự thịnh vượng chỉ là ánh hào quang bên ngoài của những thỏi vàng mà thôi.

Hiện nay người ta cho rằng Trung Quốc cũng đang áp dụng một dạng chủ nghĩa trọng thương trong chính sách kinh tế của mình. Trung Quốc biến mình thành đại công trường, sản xuất hàng hóa cho thế giới, dựa vào lợi thế công nhân giá rẻ để thu về thật nhiều… tiền, đến giữa năm nay, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã lên trên 2.600 tỷ đô-la Mỹ! Đánh đổi tài nguyên, sức lao động của người dân, bỏ lơ tác hại môi trường để thu về một đống tiền như thế, Trung Quốc lại phải đau đầu vì khối tài sản này đang trói tay họ trong nhiều chính sách tiền tệ. Ai nói chủ nghĩa trọng thương đã biến mất?

* * *

Kinh tế học có khá nhiều biện luận sai như thế vì có nhiều quy luật kinh tế trái ngược với suy luận lô-gích thông thường. Ví dụ theo lô-gích thông thường, một nông dân được mùa ắt phải vui mừng một thì khi nông dân cả một vùng, một nước được mùa ắt phải vui mừng gấp triệu lần. Nhưng không phải, nếu cả nước được mùa, giá bán nông sản sẽ sụt giảm nhanh chóng và thu nhập của nông dân sẽ bị ảnh hưởng tệ hại. Hoặc một ví dụ khác, trong thời buổi kinh tế khó khăn, tiết kiệm chi tiêu, dành dụm cho những ngày thiếu thốn là suy nghĩ quá đúng đắn – nhưng chỉ đúng ở trên bình diện cá nhân. Nếu cả xã hội đều đi theo hướng giảm chi tiêu thì chắc chắn khủng hoảng càng trở nên trầm trọng, không có lối thoát.

Bây giờ chúng ta hãy thử quan sát một trò chơi để thấy kinh tế học tràn đầy những nghịch lý như thế.

Giả thử có người bỏ ra một tờ 100 đô-la để bán đấu giá. Luật chơi là người trả giá cao nhất sẽ thắng, mua được tờ 100 đô-la này với giá đã trả; người trả giá cao thứ nhì thua và phải chịu mất khoản tiền ra giá. Đương nhiên đầu tiên sẽ có người trả 1 đô-la và ngay lập tức có người khác trả 2 đô-la, cứ thế hai bên sẽ đua nhau ra giá đến 99 đô-la (vì vẫn còn lời được 1 đô-la). Đến đây người ra giá 98 đô-la có hai chọn lựa, hoặc ngừng chơi, thua mất 98 đô-la hay ra giá 100 đô-la và hy vọng nếu thắng sẽ huề vốn. Nhưng sự đời không đơn giản, người kia cũng lập luận tương tự, nếu không ra giá tiếp, anh ta sẽ mất 99 đô-la, nhưng trả 101 đô-la lại lợi hơn vì chỉ chịu thiệt 1 đô-la thôi, nếu thắng. Đến đây, các bạn đã thấy tờ 100 đô-la có thể bán được với giá vài ba trăm là chuyện có thể xảy ra!

Người sáng suốt sẽ bĩu môi nói: ai khùng mà đi đấu giá dại dột thế! Đó chính là lý do vì sao các nhà kinh tế gia cứ cãi nhau suốt; kinh tế học thì có quy luật mà hành vi ứng xử của con người thì không. Chúng ta vẫn thường thấy cách “cứu nguy bàn thua trông thấy” như vụ bán đấu giá nói trên trong cuộc sống thường ngày: gắng rót thêm ngân sách vào những dự án thua lỗ hòng cứu vãn tình hình, bất kể chi phí ngày càng nặng thêm.

* * *

Một trong những câu chuyện thường được đem ra kể để minh họa cho cách biện giải sai trong kinh tế học là câu chuyện “kính cửa sổ bị ném vỡ”.

Một hôm con của người chủ tiệm tạp hóa chơi banh, bất cẩn đá vỡ kính cửa sổ. Các nhà kinh tế học xúm lại bàn tán: Giả thử tiền thay kính là 100 đô-la, tự nhiên một chuỗi lợi ích kinh tế đã diễn ra ngay khi kính bị vỡ và được thay. Tiệm bán kính này, người thợ lắp kính, rồi tiệm bán bánh hay cung cấp cho người thợ này, đến tận người nông dân trồng lúa mì bán cho tiệm làm bánh…

Có đúng thế thật không? Ai cũng thấy lập luận kiểu này là không đúng nhưng nó chính là cơ sở cho việc biện minh nhiều dự án tào lao nhất trên đời như dự án xây chiếc cầu Gravina Island Bridge trị giá 233 triệu đô-la ở Alaska để nối với đảo Gravina bé xíu chỉ có 50 người dân. Thậm chí nó còn được dùng để biện giải cho rằng chiến tranh là có lợi cho kinh tế, chiến tranh là lối thoát cho khủng hoảng kinh tế! Vấn đề của câu chuyện “kính cửa sổ” hay các dự án kích cầu trời ơi nằm ở chỗ người ta đã không tính đến thiệt hại của người chủ tiệm tạp hóa, cơ hội bán kính cho khách khác của người làm kính, cơ hội bán bột mì của người nông dân cho nơi khác, cơ hội dùng tiền dự tính chi cho dự án vào việc khác… Nói là dự án tào lao nhưng đặt cho nó cái tên hoàng tráng, ít ai còn nghĩ nó tào lao nữa.

* * *

Chắc ai cũng đã từng nghe qua câu chuyện hai người hàng xóm, thuê nhau đào hố. Một người thuê người kia đào một cái hố với tiền công là 1 tỷ đồng. Đào xong, người kia thuê lại người đầu lấp cái hố này lại cũng với tiền công 1 tỷ đồng. Cuối ngày, cả hai mệt nhoài nhưng hớn hở khoe nhau thu nhập của họ vào loại kỷ lục thế giới. Các nhà kinh tế học dùng câu chuyện này để chứng minh đo lường hoạt động kinh tế bằng GDP là không chính xác. Thế nhưng nếu hai anh chàng này sống ở Việt Nam, sẽ có nhiều rắc rối cho họ chứ không phải chơi. Thu nhập cá nhân lên đến 1 tỷ đồng, ắt phải nộp thuế, bất kể chi phí của anh ra sao. Và thật ra, những anh chàng này cũng đang hiện diện nhiều ở nước ta nếu quan sát cách thiên hạ đào hố lên, lấp hố xuống, rồi lại đào hố lên để lấp hố xuống. Thuế thu nhập cá nhân thì không nhưng tính vào tăng trưởng GDP là có cả đấy.

Cuối cùng xin kể một biến thể của câu chuyện này. Người ta thấy hai cô gái tóc vàng hoe, cô đi trước đào hố lên, cô đi sau lấp hố lại, cả hai làm việc miệt mài, không biết mệt. Các cô gái tóc vàng hoe thường bị “văn học dân gian” đem ra chế diễu trí thông minh tỷ lệ nghịch với vẻ đẹp của họ. Ở đây biết đâu họ đọc được câu chuyện hai người hàng xóm bèn bắt chước nhưng làm sai? “Không phải”, một cô nói. “Bọn em có ba người lận. Đứa đầu đào hố, đứa giữa gieo hạt, đứa cuối lấp hố. Nhưng hôm nay đứa giữa bị bệnh”!

Nhưng đừng kể câu chuyện này cho dân Việt Nam chúng ta nghe. Bởi chuyện tương tự trong nền kinh tế chạy theo chỉ tiêu và thành tích không phải là hiếm nên không có gì đáng cười cả.

Thứ Tư, 15 tháng 12, 2010

TPHCM xây đường sắt cao tốc?

TPHCM xây đường sắt cao tốc?

Hai hôm nay nhiều tờ báo đưa tin Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) hỗ trợ 1,1 tỷ USD cho hai dự án đường sắt cao tốc tại TPHCM. Dù cách rút tít khác nhau nhưng hầu như bản tin các báo đều có câu này: “ADB sẽ cung cấp 540 triệu đô-la cho một dự án trị giá 1,4 tỉ đô-la để xây dựng đường sắt cao tốc thứ hai tại Thành phố Hồ Chí Minh, và một khoản bổ sung trị giá 636 triệu đô-la cho một dự án có giá trị 1,6 tỉ đô-la để xây dựng đường cao tốc tới phía nam của thành phố.”

Trời đất! TPHCM xây đường sắt cao tốc từ bao giờ mà mình không biết, nay có thêm đường sắt cao tốc thứ hai nữa.

Bởi nhiều báo cùng viết như thế nên tốt nhất là kiểm tra thông tin chính thức từ ADB và chẳng cần mất nhiều công sức cũng phát hiện ngay thủ phạm đưa tin sai chính là ADB hay chính xác hơn là người dịch bản tin từ tiếng Anh sang tiếng Việt cho ADB.

Nguyên văn câu trích ở trên trong bản tin tiếng Anh như sau: “ADB will provide $540 million towards a $1.4 billion project to construct a second mass transit line in Ho Chi Minh City, and an additional $636 million for a $1.6 billion project to construct a modern expressway to the south of the city”.

Hóa ra ADB tham gia cho vay vốn đối với hai dự án giao thông tại TPHCM, một là dự án tuyến metro thứ hai và một là dự án đường cao tốc Bến Lức-Long Thành.

Cái “mass transit line” ở đây thường được báo chí trong nước gọi bằng nhiều tên khác nhau như tuyến đường sắt đô thị, tuyến tàu điện ngầm nhưng thường dùng nhất là tuyến metro. Tuyến thứ nhất là Bến Thành-Suối Tiên do Nhật Bản cho vay tiền để làm. Tuyến thứ nhì là Bến Thành-Tham Lương, trị giá 1,4 tỷ đô-la, lần này ADB cho vay 540 triệu đô-la để làm.

Dịch thành “đường sắt cao tốc” nghe mệt tim quá.

Cái thông cáo báo chí này của ADB còn nhiều đoạn kinh khủng hơn nữa: “Hệ thống đường tàu điện ngầm dài 11,3 km sẽ kéo dài từ Bến Thành tới trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, gần siêu thị lớn nhất của thành phố, đi qua Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất tới Tham Lương. 9,3 km đường cao tốc sẽ chạy ngầm và 2 km đường kết nối từ đường ngầm lên trên mặt đất”.

Đọc đoạn này thì không cần đối chiếu với bản tiếng Anh, ai từng đến TPHCM đều biết là nó sai một cách ngớ ngẩn, kiểu “từ Bến Thành tới trung tâm thành phố, gần siêu thị lớn nhất của thành phố”. (Tiếng Anh là from Ben Thanh in central Ho Chi Minh City, near the city's largest market).

Ở đây có hai chuyện đáng nói. Tính chuyên nghiệp của các tổ chức quốc tế như ADB hay WB dạo này giảm sút, ít nhất ở khâu dịch thuật hay văn bản bằng tiếng Việt. Đây là điều đáng báo động vì biết bao nhiêu dự án, đánh giá, thẩm định, tư vấn chuyển từ Anh sang Việt sẽ tam sao thất bản, có khả năng gây tai hại lớn. Thử tưởng tượng một khuyến nghị đúng đắn bị dịch sai và triển khai sai thì tác hại sẽ như thế nào?

Cái thứ hai là phóng viên của chúng ta. Người ta đưa bản thông báo sai như thế thì phải tự mình tìm hiểu và sửa lại đi chứ, sao lại cứ thế đăng lên nguyên xi. Ngay cả cái câu tôi vừa trích dẫn ở trên vẫn được một số báo trích đăng nguyên vẹn. Lỡ có ai ở xa đọc xong, cất công đi tìm siêu thị lớn nhất thành phố ở trung tâm Sài Gòn thì tìm đâu ra!

Thứ Tư, 8 tháng 12, 2010

Lý giải các thách thức

Lý giải các thách thức

Như thông lệ, cùng với Hội nghị thường niên nhóm tư vấn các nhà tài trợ diễn ra đầu tuần này tại Hà Nội, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam. Báo cáo năm nay cho thấy bên cạnh mức độ tăng trưởng khá cao, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức.

Những thách thức này thật ra đã được các chuyên gia kinh tế trong nước nhận diện từ lâu. Tuy nhiên lý giải nguyên nhân của WB có nhiều điểm đáng lưu ý.Những bất ổn vĩ mô của Việt Nam hiện nay, theo WB, là đã khởi phát từ năm 2007, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, dòng vốn bên ngoài đổ vào nhiều chưa từng thấy, đã tạo nên sự bùng nổ tín dụng và bong bóng tài sản.

Cộng với những cú sốc từ bên ngoài như giá cả tăng vọt năm 2008, khủng hoảng tài chính năm 2009 và nợ công châu Âu năm 2010, Việt Nam hiện đang gánh chịu mức độ lạm phát cao nhất trong vùng Đông Á - Thái Bình Dương, tỷ giá chịu áp lực mạnh, dự trữ ngoại hối giảm, thị trường chứng khoán sụt giảm, trái phiếu chính phủ phải chịu lãi suất cao, thâm hụt tài khoản vãng lai lớn.

Về ngoại thương, báo cáo nhận định, trong khi thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là các nước phát triển, nguồn nhập khẩu lại chủ yếu đến từ Trung Quốc và Đông Á. Điều này giải thích vì sao Việt Nam đang xuất siêu với các nước phát triển nhưng lại nhập siêu với các bạn hàng láng giềng.

Lý do đằng sau, báo cáo nhận định, có thể là vì Việt Nam chưa kết nối được các mạng lưới sản xuất toàn cầu được triển khai tại Đông Á - Thái Bình Dương/ASEAN hoặc là vì các mạng lưới này, đặc biệt loại sản xuất hàng cần nhiều nhân công giá rẻ như may mặc, giày dép, lại kết thúc ở Việt Nam.

Mặc dù nhận định thâm hụt mậu dịch, sau khi tăng vọt ở thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, đang có chiều hướng giảm dần, kéo theo mức giảm thâm hụt tài khoản vãng lai, báo cáo cho rằng mức thâm hụt cao kéo dài cho thấy có vấn đề về cấu trúc. Thứ nhất, các khoản hỗ trợ phát triển chính thức khó lòng tăng nhanh như trong quá khứ; thứ hai, sản xuất dầu thô trong nước đã lên đỉnh và sẽ giảm trong những năm tới; thứ ba, dòng tiền đầu tư trực tiếp chuyển lợi nhuận về nước sẽ tăng cao trong những năm tới.

Về áp lực lên tỷ giá, WB nhận xét trong một thời gian dài, mỗi khi có chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do sau một thời gian, giới quản lý giải quyết bằng cách điều chỉnh tỷ giá hay nâng biên độ giao dịch. Cách làm đó đã tạo ra sự kỳ vọng các lần điều chỉnh trong tương lai nên tạo ra sự bất ổn trên thị trường.

Đặt câu hỏi “Vì sao tiền đồng chịu nhiều áp lực như thế?”, báo cáo không cho rằng đó là do tiền đồng được định giá quá cao so với các nước láng giềng. Thực tế, tiền đồng đã mất giá so với đô la Mỹ đến 9-10% trong năm nay và đến 15-25% so với đồng tiền các nước khác trong ASEAN. “Vì thế rõ ràng là chỉ phá giá tiền đồng mà không giải quyết các nguyên nhân gốc rễ thì cũng không phải là giải pháp hữu hiệu”, báo cáo nhận xét. Thâm hụt tài khoản vãng lai cũng không phải là nguyên nhân vì thâm hụt này về nguyên tắc đã được bù đắp bởi thặng dư tài khoản vốn.

Báo cáo cho rằng nguyên nhân nằm ở chỗ thặng dư tài khoản vốn lại không được dùng để tài trợ cho thâm hụt tài khoản vãng lai vì tình trạng đô la hóa. Một lượng lớn ngoại tệ được doanh nghiệp cất giữ ở tài khoản ngoài nước hay bên ngoài hệ thống ngân hàng và vì thế, vấn đề tỷ giá không chỉ do lạm phát cao, dự trữ ngoại hối thấp, thâm hụt mậu dịch... mà còn bởi sự suy giảm niềm tin của thị trường vào khả năng giải quyết những yếu kém này.

Về lạm phát, báo cáo cho rằng nên nhìn nhận ở góc độ lịch sử vì Việt Nam trong suốt thập niên qua đã duy trì mức lạm phát bình quân lên đến 8,8%. Điều đó phản ánh xu hướng người làm chính sách muốn duy trì tốc độ tăng trưởng cao hơn là chú trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Đó cũng là mâu thuẫn mà giới điều hành chính sách tiền tệ phải đối diện khi phải nhận lãnh hai nhiệm vụ trái ngược nhau: hỗ trợ kinh tế phục hồi và ổn định giá cả. Dĩ nhiên, khi buộc phải điều chỉnh chính sách liên tục như thế, kết quả ắt là một lập trường tiền tệ thất thường mà nhiều người đã phê phán là lúc thế này, lúc thế khác.

Ví dụ, sau khi kinh tế hồi phục vào cuối năm 2009, Chính phủ chủ trương thắt chặt tiền tệ; tháng 11-2009, lãi suất cơ bản được nâng 1 điểm phần trăm, tỷ giá được điều chỉnh 5,5%, việc bù lãi suất dần dần được chấm dứt. Nhưng đến quí 1-2010, khi tốc độ tăng GDP chỉ còn 5,8% và dưới áp lực của giới kinh doanh về lãi suất cao, chính sách lại được điều chỉnh vào giữa năm 2010 để hỗ trợ cho tăng trưởng, giới ngân hàng chịu áp lực phải giảm lãi suất. Đến nay, để chống lạm phát, lãi suất cơ bản được nâng lên 1 điểm phần trăm vào đầu tháng 11 nhưng khi lãi suất liên ngân hàng tăng vọt lên 18-20%, Ngân hàng Nhà nước lại can thiệp để giảm áp lực lên tính thanh khoản...

Vì thế, báo cáo cho rằng để chống lạm phát và ổn định tỷ giá, Chính phủ cần phát tín hiệu rõ ràng về cam kết tạo ra và duy trì sự ổn định vĩ mô trong ngắn hạn. Đi kèm theo đó là các chính sách cần thiết và thường xuyên cung cấp thông tin cho thị trường để tạo dựng niềm tin. Cũng cần bảo đảm sự nhất quán giữa các mục tiêu như lãi suất, hạn mức tín dụng, cung tiền... để tránh quán tính thay đổi chính sách liên tục.

Đáng tiếc là ngoài phần khuyến cáo ngắn nói trên, báo cáo hầu như không đưa ra được giải pháp nào khác cho những thách thức vĩ mô mà báo cáo đã dùng phần lớn nội dung để phân tích. Và đó thật ra cũng là mục đích của các tác giả bản báo cáo khi họ nhấn mạnh việc phân tích chủ yếu là để nhìn lại, điểm lại tình hình kinh tế của Việt Nam trong năm qua.

(Về đánh giá bản báo cáo, xem bài “Là hệ quả khó biện giải” của Vũ Thành Tự Anh trên TBKTSG)


Thứ Ba, 7 tháng 12, 2010

Cứng rắn trước sức ép

Cứng rắn trước sức ép

Sự đời không đơn giản.

Trước đây chúng ta thường nghe phương Tây rao giảng về kinh tế thị trường, về quản trị công ty, về việc nhà nước phải tránh xa việc kinh doanh, để cho thị trường tự điều tiết và tự quyết định.

Thế nhưng, mới đây, Standard & Poor’s hạ điểm xếp hạng tín dụng dài hạn của Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam chỉ vì Chính phủ Việt Nam theo họ, dường như không còn đứng ra giải cứu các tập đoàn kinh tế nhà nước nếu chúng lâm vào cảnh nợ nần.

Haha. Đúng là cháy nhà ra mặt chuột.

Như vậy trước đây các khoản vay của các tập đoàn nhà nước với các định chế tài chính nước ngoài được ký kết dễ dàng là do giới đầu tư nước ngoài yên chí có Chính phủ đứng đằng sau, lỡ có bề gì, khoản cho vay của họ cũng không sao. Đấy là nói về các khoản vay không có Chính phủ đứng ra bảo lãnh. Còn khoản phát hành trái phiếu quốc tế về cho Vinashin vay lại thì đương nhiên Chính phủ phải chịu trách nhiệm trả nợ.

Vì tâm lý ỷ lại đó, đã có những khoản tiền từ nước ngoài cho Vinashin vay vô tội vạ, không cần đếm xỉa gì đến quy trình thẩm định dự án vay một cách bình thường.

Thôi, chuyện đó không nói nữa. Vấn đề là với Vinashin, chắc chắn sức ép từ bên ngoài bắt tập đoàn này trả nợ đúng hạn trong thời gian tới sẽ rất cao.

Tháng trước Vinashin nói là sẽ đề nghị các chủ nợ hoãn phần thanh toán 60 triệu đô-la đến hạn vào cuối tháng 12 này thêm một năm. Nói vậy là không hiểu gì về quy trình làm ăn của các chủ nợ - họ đâu dễ dàng gì cho hoãn khơi khơi vậy vì còn phải giải trình với cổ đông, với giới điều hành thị trường, với cấp trên. Và tiền của họ, khoản nào ra khoản đó, làm gì có chuyện ưa hoãn là hoãn.

Khả năng họ không đồng ý là cao. Và hệ quả sẽ rất phức tạp, không chỉ với Vinashin.

Trong tuần tới chúng ta sẽ nghe biết bao phân tích, rằng từ nay doanh nghiệp Việt Nam đi vay nước ngoài sẽ khó khăn gấp bội lần, vay được thì cũng phải chịu chênh lệch lãi suất cao hơn trước nhiều. Rồi nhà đầu tư sẽ phát biểu theo kiểu, một lần bất tín vạn lần bất tin. Tất cả đều nhắm vào gây sức ép để Chính phủ đứng ra giải quyết nợ cho Vinashin lần này.

Nếu nhìn ngắn hạn, chắc chắn sẽ có những ý kiến khuyên Việt Nam nên giải quyết khoản nợ này chứ không thôi hậu quả lan ra sẽ rất đắt đỏ.

Nhưng theo tôi, nên cứng rắn trước mọi sức ép. Vinashin vay không có sự bảo lãnh của Chính phủ thì cứ để Vinashin chịu trách nhiệm. Nếu chủ nợ tuyên bố Vinashin default (mất khả năng chi trả), ảnh hưởng là có và sẽ rất lớn. Nhưng chẳng thà chịu đau lần này, nhân đó thắt lưng buộc bụng để vượt qua các thử thách còn hơn vì lợi ích ngắn hạn mà nhượng bộ sức ép.

Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2010

Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh

Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh

Tôi nhận được một số phản hồi từ bài phỏng vấn GS Porter. Đa phần tỏ ra không đồng ý với câu trả lời của ông về khái niệm “cái bẫy trào lưu mậu dịch tự do” và tỏ ý chờ đợi xem Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Việt Nam có đưa ra được gì mới không.

Có một số bạn nhân đó hỏi vì sao có lúc nói lợi thế so sánh, có lúc nói lợi thế cạnh tranh. Về điểm này, tôi từng viết một bài (bài “Đi tìm lợi thế cạnh tranh” – đăng trên TTCT từ năm 2004 khi Việt Nam chưa vào WTO).

Xin trích lại ở đây để lưu trên blog này luôn thể:

Đi tìm lợi thế cạnh tranh

Trước những thất bại thấy rõ của những chương trình như mía đường, ximăng lò đứng..., nhiều người tự hỏi nên chăng chúng ta chỉ làm những gì chúng ta có ưu thế, còn lại thà nhập khẩu hơn là sản xuất ra hàng hóa bán không ai mua vì giá thành quá cao? Vấn đề càng cấp bách khi VN trước sau gì cũng gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và phải gỡ bỏ hầu hết mọi rào cản thương mại, đầu tư, cân nhắc đầu tư vào đâu cho có lợi nhất là một bài toán khó.

Câu hỏi này thật ra được thế giới đặt ra từ lâu và lần hồi qua chiêm nghiệm và kinh nghiệm thực tiễn đã hình thành nên những lý thuyết làm nền tảng cho thương mại quốc tế. Đầu tiên, từ thời Adam Smith đã nổi lên lý thuyết lợi thế tuyệt đối, lập luận đúng y như câu hỏi ở trên. Người ta còn khẳng định nhờ chuyên biệt hóa, mỗi nước sẽ hình thành kinh nghiệm, tay nghề sẽ ngày càng tinh xảo và nhờ thế sẽ cạnh tranh dễ dàng với nước khác. Lợi thế tuyệt đối của mỗi nước sẽ được củng cố bằng lợi thế tự nhiên như giàu tài nguyên thiên nhiên, nhân công dồi dào, giá rẻ... cũng như những lợi thế có được nhờ tiến bộ trong khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý để bù đắp những thiếu hụt về tài nguyên, chẳng hạn.

Nếu chỉ cân nhắc đến lợi thế tuyệt đối như vậy, rõ ràng chúng ta chỉ nên sản xuất và xuất khẩu gạo, cà phê, tiêu, hạt điều... mà không nên tốn công sức thử gắng tiến thêm một bước chế biến các sản phẩm này để kiếm thêm tiền nhờ giá trị gia tăng. Theo dòng suy nghĩ này, chúng ta cũng không nên tính đến chuyện xa vời như sản xuất linh kiện máy vi tính hay tivi vì người ta đã làm giỏi hơn, rẻ hơn ta nhiều.

Sự đời không đơn giản như thế. Xin lấy một ví dụ từ cuộc sống bình thường để dễ hình dung. Giả thử có ông bác sĩ tay nghề chuyên môn giỏi mà công việc quản lý sổ sách văn phòng cũng giỏi luôn. Như thế ông này có nên áp dụng lý thuyết lợi thế tuyệt đối để tự mình làm hết mọi chuyện, từ khám chữa bệnh đến quản lý phòng khám? Chắc chắn là không; ông ta sẽ thuê cô thư ký để lo chuyện sổ sách mặc dù cô này làm chậm hơn ông - để ông tận dụng hết thời giờ khám chữa bệnh, vừa cứu được nhiều người vừa thu tiền nhiều hơn chứ.

Với lập luận tương tự, David Ricardo triển khai lý thuyết lợi thế tuyệt đối thành lợi thế so sánh, khi các nước phải nhường bớt những công đoạn dù đang chiếm lợi thế tuyệt đối cho nước khác để tập trung làm những gì đem lại lợi ích nhiều nhất cho họ, để tận dụng tác động của chi phí cơ hội. Giả thử trước nay Singapore chuyên nhập hạt điều của VN về chế biến để xuất khẩu đi khắp thế giới vì họ có lợi thế tuyệt đối hơn hẳn VN trong kỹ thuật chế biến và quan hệ bạn hàng, kinh nghiệm buôn bán...

Nhưng bỗng chốc họ nhận ra để đồng vốn đó, nhân công đó đi chế biến món khác thì có lời hơn, đầu tiên họ sẽ tìm cách đầu tư vào VN để vẫn tiếp tục tận dụng các lợi thế nói trên thêm một thời gian nữa. Và có thể sau đó họ bỏ hẳn thị trường cho các công ty VN làm. Như vậy Singapore, trong giả định này, vẫn có lợi thế tuyệt đối so với VN nhưng VN dần dần tạo ra lợi thế so sánh hơn hẳn Singapore.

Đến đây chúng ta đã thấy sự nhanh nhạy của giới kinh doanh, đầu tư là làm sao nhận ra được lợi thế so sánh của mình, chớp thời cơ để vươn lên, vượt qua mặc cảm thua thiệt “tuyệt đối”. Điều này cũng giải thích nguyên nhân của các dòng chảy vốn đầu tư, như Cannon vào VN để sản xuất máy in cho nhiều thị trường khác; hay lý do đằng sau nhiều dự án khác vì lợi thế cạnh tranh tùy thuộc rất nhiều yếu tố, kể cả có hay không rào cản thương mại.

Tuy nhiên, lý thuyết lợi thế so sánh xem chừng cũng chỉ gán cho mỗi nước một công việc một cách khiên cưỡng, trong cái gọi là phân công lao động toàn cầu. Không lẽ các nước không đóng vai trò gì để cải thiện số phận đã được phân công cho mình? Cho dù toàn cầu hóa đã đạt đến qui mô chưa từng có, vẫn còn đó những rào cản rất lớn như khác biệt văn hóa, cách trở địa lý, quyền lợi dân tộc, nhất là sự lan rộng của chủ nghĩa khủng bố và nỗ lực chống khủng bố hiện nay.

Nhìn lại chính sách bảo hộ nông nghiệp của nhiều nước, chúng ta thấy ngay quyền lợi người dân gắn liền với sinh mệnh chính trị của các đảng phái làm cho lý thuyết lợi thế so sánh không phải lúc nào cũng đúng. Sản xuất gạo ở Nhật đắt gấp chục lần nhập khẩu gạo từ nước khác, thế mà Chính phủ Nhật vẫn phải bỏ tiền trợ cấp cho nông dân Nhật trồng lúa và dùng thuế cao cản trở hàng nhập khẩu. Tình hình cũng tương tự trong sản xuất đường ở châu Âu hay nhiều loại nông sản khác ở Mỹ.

Nói vậy để thấy trong đàm phán gia nhập WTO, chúng ta đòi hỏi một lộ trình là để kéo dài và nâng cao lợi thế so sánh của một số ngành nghề trong nước trước khi phải tháo dỡ hoàn toàn mọi biện pháp bảo hộ, để doanh nghiệp tự tạo lợi thế so sánh của chính mình.

Thực tế phát triển kinh tế ở nhiều nước đã giúp hình thành các lý thuyết khác, mà gần đây nhất là lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của Michael Porter. Để đạt được lợi thế cạnh tranh, các nước và doanh nghiệp phải chủ động trong xây dựng các yếu tố, trong đó có một yếu tố gần gũi với chủ đề chúng ta đang đề cập – các nền công nghiệp phụ trợ.

Từ việc nhận ra nhu cầu của thị trường, trước tiên là thị trường trong nước, kết hợp với các lợi thế trong lao động, tài nguyên, vốn liếng, kỹ thuật, một ngành công nghiệp sẽ có lợi thế cạnh tranh nếu có thêm những ngành công nghiệp liên quan hỗ trợ. Lợi thế cạnh tranh này càng củng cố nếu được sự hỗ trợ của chính quyền trong việc tháo bỏ những rào cản hành chính, xây dựng một môi trường kinh doanh bình đẳng, tiên liệu được để doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện mình qua cạnh tranh, nâng cao năng suất tổng thể.

Dĩ nhiên, toàn cầu hóa đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các yếu tố này; chẳng hạn, nhu cầu thị trường không nhất thiết đến từ trong nước mà từ xuất khẩu, vốn hay công nghệ vẫn có thể mua hay thu hút từ nhà đầu tư nước ngoài và công nghiệp phụ trợ phải hiểu trên qui mô toàn khu vực hay toàn cầu – linh kiện có thể nhập dễ dàng để cung ứng cho sản xuất trong nước. Các tập đoàn đa quốc gia chọn nơi để làm căn cứ sản xuất cho thị trường toàn cầu của họ cũng dựa vào toan tính trên những yếu tố cạnh tranh này.

Quay trở lại câu hỏi ở đầu bài, câu trả lời không đơn giản như chúng ta nghĩ – xác định đâu là lợi thế so sánh của chúng ta, chúng ta có thể làm gì để tạo lợi thế cạnh tranh – là bài toán doanh nghiệp nào cũng phải cân nhắc trước khi bắt tay vào một dự án nào đó cụ thể dựa vào những yếu tố nói trên qua những nghiên cứu thị trường bài bản.

Điều chúng ta có thể khẳng định vai trò của Nhà nước trong quá trình này là làm sao tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp, cả trong và ngoài nước, tạo lợi thế cạnh tranh cho họ. Chính sách của Nhà nước sẽ phát ra tín hiệu cho thị trường và thị trường, trong nỗ lực tối ưu hóa nguồn lực của mình trên bình diện quốc gia và toàn cầu, sẽ nhanh chóng đáp ứng – nếu tín hiệu tiêu cực, không tạo ra lợi thế cạnh tranh, nhà đầu tư sẽ không bỏ tiền ra hay chuyển đồng tiền của mình đi nơi khác; còn nếu tín hiệu tích cực, Nhà nước không cần kêu gọi nhiều, người ta cũng sẽ nhanh chóng lập dự án, tận dụng thời cơ. Ngược lại, mọi nỗ lực như đổ tiền thuế của người dân vào dự án xây dựng công nghiệp xe hơi nội địa như ở Malaysia chỉ làm méo mó thị trường một thời gian rồi kết thúc trong thất bại.

Xét cho cùng, lợi thế cạnh tranh sẽ không có ý nghĩa gì nếu chỉ dựa vào việc tạo ra những ưu thế giả tạo, chỉ tồn tại trong thời gian ngắn hay những ưu thế bất lợi cho người dân như giá công nhân rẻ hay tận dụng tài nguyên bất kể hậu quả môi trường.

Nếu đọc bài trên, các bạn sẽ thấy câu hỏi về “cái bẫy trào lưu mậu dịch tự do” chỉ là một cách để GS Porter nói thêm về lý thuyết “lợi thế cạnh tranh” của ông như một giải pháp vượt ra “lời nguyền” lợi thế so sánh.

Bởi lý thuyết lợi thế cạnh tranh cho rằng một nước không thể cứ cạnh tranh mãi dựa trên nguồn lao động rẻ, tài nguyên dồi dào mà phải từng bước trèo lên các bậc thang chuỗi giá trị, sản xuất hàng ngày càng có chất lượng cao hơn để hưởng phần lớn hơn. Động lực thúc đẩy cho quá trình này là tăng năng suất, tận dụng nguồn lực, tạo ra sự khác biệt để từ đó hình thành lợi thế cạnh tranh về giá hay về sự khác biệt. Và vai trò của Nhà nước là làm bà đỡ cho quá trình như thế được diễn ra một cách thuận lợi nhất.

Chính vì thế một bạn đã nhận xét:

Tôi đọc bài phỏng vấn GS Porter (cả bản tiếng Anh lẫn tiếng Việt) và có cảm giác ông không hiểu lắm câu hỏi thứ 2. Thật ra quan điểm của GS Thọ về bẫy xu hướng mậu dịch tự do hình như đâu mâu thuẫn với lý thuyết lợi thế cạnh tranh - chính vì "static comparative advantage" dẫn tới việc phụ thuộc vào xuất khẩu tài nguyên nên mới cần "dynamic comparative advantage" (ở đây là những ngành có giá trị gia tăng cao mà lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của GS Porter hình như có đề cập đến).

Chắc do sợ GS Thọ kêu gọi VN quay về thời kì bế quan tỏa cảng (chắc là không!) nên GS Porter mới gọi nó là "serious mistake", chứ tôi thấy chuyện chuyển từ "free trade" sang "managed trade" là xu hướng chung rồi. Đó cũng là lí do người ta chuyển từ đồng thuận Washington (Washington consensus, nhấn mạnh đến tự do hóa tài chính, thương mại,...) sang đồng thuận Santiago (Santiago consensus, không nhấn mạnh đến tự do thương mại hay dân chủ, mà chú trọng đến đầu tư nhân lực, giảm nghèo,...).

Một nhận xét khác:

Tôi có cảm giác nhiều bài báo kinh tế ở Việt Nam dùng "lợi thế so sánh" với "lợi thế cạnh tranh" khá tùy hứng, nên bản thân tôi (vốn không hiểu rõ về lý thuyết của GS Porter lắm) cũng thấy bối rối khi đọc. Đôi khi tôi không rõ khi nhà báo viết "lợi thế cạnh tranh", họ đang dùng theo nghĩa mà GS Porter nói hay chỉ xài theo thói quen và trực giác (kiểu, muốn thành công thì phải có lợi thế, mà vì đây là nền kinh tế thị trường nên mình gọi là "lợi thế cạnh tranh", chứ cũng không biết rõ "policy implications" của cụm từ này).

Đôi khi tôi thắc mắc: ở VN, những ngành thâm dụng lao động giá rẻ là lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, hay cả hai? Hai cụm từ này khác nhau và giống nhau ra sao?

Vì thế mới có entry này.

Đáng tiếc là thực tế ở Việt Nam mấy năm qua, từ khi gia nhập WTO, không những không tạo ra cho mình lợi thế cạnh tranh mà còn để mất nhiều lợi thế so sánh khác hay không tạo ra cho mình lợi thế so sánh mới. Việc phải nhập khẩu cả tăm tre, rồi các doanh nghiệp nước ngoài như Sony, từ bỏ định hướng sản xuất chuyển sang làm công ty thương mại nhập hàng vào Việt Nam để bán (ngay cả Coca-Cola cũng nhập nước giải khát vào bán vì lãi nhiều hơn) cho thấy điều đó. Hệ quả là nhập siêu ngày càng lớn. Đó chính là cái bẫy của trào lưu mậu dịch tự do khi các lợi thế so sánh của Việt Nam bị cố định hóa, số phận gia công đã bị an bày.

Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2010

Phải tự mình thiết kế chiến lược

Phải tự mình thiết kế chiến lược

Giáo sư Michael Porter, người được mệnh danh là cha đẻ chiến lược cạnh tranh, sẽ trở lại Việt Nam chủ trì hội thảo “Cạnh tranh và chiến lược doanh nghiệp ngày nay” sẽ được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 29-10. Ông cũng sẽ đồng chủ trì buổi công bố Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Việt Nam 2010 vào ngày hôm sau cùng Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải. TBKTSG được ông dành riêng cuộc phỏng vấn qua thư trước chuyến đi.

TBKTSG: So với chuyến làm việc tại Việt Nam năm 2008, lần này Giáo sư sẽ đưa ra những điểm gì mới?

GS Michael Porter: Việt Nam đang ở vào một thời điểm quan trọng về mặt phát triển và tôi hy vọng những doanh nhân tham dự hội thảo sẽ có cơ hội hiểu rõ hơn về chiến lược để đưa doanh nghiệp đạt được những thành công bền vững trong giai đoạn đầy biến động này. Ngoài ra, Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Việt Nam mà tôi có vinh dự trình bày tại Hà Nội vào ngày 30-10 trước lãnh đạo Chính phủ sẽ cung cấp một phân tích sâu về vị thế hiện nay của Việt Nam và đưa ra những giải pháp cụ thể cho con đường phía trước.

TBKTSG: Nói về vị thế hiện nay của Việt Nam, một chuyên gia kinh tế đã cảnh báo rằng Việt Nam có nguy cơ rơi vào “bẫy trào lưu mậu dịch tự do” (GS Trần Văn Thọ). Điều chuyên gia này muốn nói là với sự trỗi dậy của Trung Quốc như một nền kinh tế mạnh, lợi thế so sánh của các nước Đông Á đang phải chuyển dịch nhanh để thích ứng. Trong khi đó, lợi thế so sánh của Việt Nam vẫn là nguyên liệu, nông lâm thủy sản và hàng công nghiệp dùng nhiều lao động giản đơn. Nguy cơ của cái bẫy này là cơ cấu lợi thế so sánh của Việt Nam có thể sẽ bị cố định hóa, không thể chuyển dịch lên cao hơn.

- Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong hai thập niên vừa qua, với những cải cách rộng lớn trong nước và mở cửa cho bên ngoài thông qua việc gia nhập WTO và các biện pháp khác. Từ chỗ là nền kinh tế khép kín, quản lý tập trung, Việt Nam đã trở thành một bộ phận sinh động của nền kinh tế toàn cầu. Quá trình này đã đem lại những lợi ích to lớn cho nhiều người dân Việt Nam. Thu nhập bình quân đã tăng lên và tỷ lệ nghèo đã giảm đáng kể.

Trong khi mô hình kinh tế này vẫn còn một ít tiềm năng, ngày càng có dấu hiệu cho thấy nó không còn nhiều động lực nữa. Tuy nhiên, xem những thử thách đang xuất hiện này là dấu hiệu của một cái “bẫy mậu dịch tự do” là sai lầm lớn. Cho đến nay, mở cửa nền kinh tế là yếu tố then chốt cho thành công của Việt Nam. Và mở cửa vẫn còn là sự cần thiết để đạt được sự thịnh vượng trong tương lai. Nhưng như vậy là chưa đủ - và đây là điểm rất quan trọng,

Đến giai đoạn phát triển này, Việt Nam đang đối diện một loạt những thách thức quan trọng rất khác với trước. Việt Nam phải vượt lên cách cạnh tranh chỉ dựa vào những thuận lợi được thừa hưởng từ trước – chủ yếu là lực lượng lao động dồi dào, chăm chỉ - và bắt đầu xây dựng những thế mạnh và năng lực riêng của mình cũng như một môi trường kinh doanh chất lượng cao hơn nhiều. Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Việt Nam cung cấp câu trả lời đầy đủ hơn.

TBKTSG: Nhưng vấn đề là ở chỗ, trong bối cảnh các nước đang phải đối phó với nhiều vấn đề mới, chiến tranh tiền tệ là một ví dụ, trong đó lợi thế cạnh tranh có thể dễ dàng bị vô hiệu hóa bằng sự tăng giảm một vài phần trăm trong tỷ giá hối đoái. Giáo sư có nghĩ mô hình cạnh tranh vẫn còn có thể phát huy tác dụng trong một bối cảnh như thế?

- Như mọi quốc gia tham dự vào nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam cần quan tâm đến những mất cân đối toàn cầu quan trọng. Việc rơi trở lại chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch cho đến nay đã không xảy ra nhưng biến động tỷ giá lớn rõ ràng là một quan ngại. Việt Nam ít có ảnh hưởng đến việc tiến đến một cấu trúc kinh tế toàn cầu bền vững hơn bởi các quyết định lớn như thế được đưa ra ở Bắc Kinh, Washington hay tại cuộc họp G-20 ở Seoul. Cách bảo vệ hay nhất của Việt Nam trước những xu hướng kinh tế toàn cầu là nhắm đến tính cạnh tranh dài hạn của mình.

Cạnh tranh là động lực thúc đẩy tăng trưởng thịnh vượng dài hạn, chứ không phải là tỷ giá ngắn hạn. Đất nước càng cạnh tranh cao, thì nền kinh tế càng ít bị ảnh hưởng bởi biến động tỷ giá. Chỉ cần nhìn vào Đức và Thụy Điển, hai nước này vẫn rất giàu có và đang thặng dư mậu dịch bất kể tỷ giá tăng lên.

TBKTSG: Doanh nghiệp trên thế giới đang thay đổi mô hình hoạt động, họ định nghĩa lại năng lực cạnh tranh khi năng suất không còn quan trọng bằng cải tiến công nghệ như trường hợp Apple chẳng hạn. Trong hai năm qua, quan điểm của Giáo sư về lý thuyết cạnh tranh có thay đổi theo chăng?

- Với doanh nghiệp bất kỳ đâu, những năm vừa qua là một thử thách khắc nghiệt. Đơn hàng giảm mạnh, tín dụng hạn chế, nhiều công ty phải điều chỉnh giảm mạnh quy mô hoạt động. Công ty nào nổi lên là doanh nghiệp mạnh nhất là công ty có chiến lược rõ ràng và bám theo chiến lược này. Định vị một cách khác biệt trên thương trường, tập trung vào đó giúp họ biết nên cắt giảm lãnh vực nào trong khi duy trì những hoạt động thiết yếu cho giá trị công ty. Những công ty như thế đang tăng thị phần, chiếm được từ đối thủ chỉ biết cắt giảm tùy tiện.

Tại những nước như Việt Nam, doanh nghiệp còn phải làm nhiều trong khía cạnh học hỏi những tập quán tốt nhất trong quản trị, công nghệ và hoạt động. Toàn cầu hóa giúp việc tiếp cận những tập quán này dễ dàng hơn nhiều. Những công ty nào tiếp thu thành công những tập quán tốt theo đúng tình hình riêng của đất nước mình, của ngành mình sẽ thu lượm nhiều lợi ích đáng kể, sẽ nâng được năng suất và lợi nhuận. Công ty nào khéo léo ứng dụng tập quán toàn cầu vào những tập quán địa phương sẽ cạnh tranh hơn hẳn không những các đối thủ trong nước mà ngay cả các tập đoàn đa quốc gia nữa. Đây là loại cải tiến, tiếp nhận và ứng dụng công nghệ thông tin sẽ rất quan trọng ở Việt Nam trong nhiều năm tới.

TBKTSG: Dĩ nhiên doanh nghiệp trong nước không thể và không nên trông chờ Giáo sư trao cho họ phương thuốc cạnh tranh nhiệm màu có thể giúp họ trở nên cạnh tranh tốt trong chốc lát. Nhưng họ kỳ vọng Giáo sư sẽ cụ thể hóa lý thuyết của Giáo sư với những đặc điểm địa phương thành một dạng lý thuyết giúp họ có thể nâng cao tính cạnh tranh trong bối cảnh Việt Nam.

- Suy cho cùng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải xây dựng cho mình các chiến lược đúng đắn. Thành công hôm nay vẫn dựa vào việc tận dụng những cơ hội ngắn hạn thay vì phát triển trên nền tảng lợi thế cạnh tranh bền vững. Nền kinh tế như Việt Nam càng phát triển, cách tiếp cận này càng khó thành công. Các hiểu biết cơ bản về chiến lược là bất biến. Tuy nhiên, các chọn lựa chiến lược cụ thể có thể và thật sự thay đổi khi công nghệ và thị trường thay đổi. Lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu các quy luật cơ bản của chiến lược thay vì trở thành nạn nhân của các trào lưu thời thượng trong quản trị. Những nhà quản trị nào hiểu được những nguyên tắc này sẽ có cơ hội to lớn để phát triển các chiến lược độc đáo phù hợp với bối cảnh Việt Nam.

NVP thực hiện

Box

Học viện Năng lực Cạnh tranh châu Á (ACI) Singapore đã phối hợp với Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) xây dựng Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Việt Nam 2010 với sự chỉ đạo về chuyên môn của Giáo sư Michael Porter.

Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Việt Nam là báo cáo quốc gia đầu tiên được xây dựng nhằm đánh giá toàn diện và sâu sắc năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên các khía cạnh, đồng thời để xuất một chương trình hành động tổng thể nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, duy trì đà tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.

Ngày 30-11 tại Hà Nội, Văn phòng Chính phủ sẽ phối hợp với hai viện nghiên cứu này tổ chức hội thảo công bố báo cáo. Hội thảo do Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải và Giáo sư Michael Porter đồng chủ trì.

Thứ Năm, 25 tháng 11, 2010

Phỏng vấn Michael Porter


(Đây là bài tôi phỏng vấn GS Michael Porter - bản tiếng Việt xin đón đọc trên TBKTSG Online)

Define your own strategy

Professor Michael Porter, probably the most well-known authority on modern management and competitive strategy, is coming back to Vietnam to talk about “Today’s Competitiveness and Corporate Strategy” to the business community next Monday. He is also scheduled to present the Vietnam Competitiveness Report the next day to the Vietnamese government. TBKTSG’s Managing Editor Nguyen Van Phu had a chance to exchange letters with him before his trip.

TBKTSG: What do you have to offer to Vietnam this time that you did not during the 2008 trip?

-Vietnam is at a crucial time in terms of development and I hope that those business leaders who attend my talk will be able to better understand strategy and drive their companies forward to increased, sustainable success in these turbulent times. Besides, I will have the honor of presenting the Vietnam Competitiveness Report in Hanoi in the presence of the government leaders, provides an in-depth analysis of where Vietnam currently stands and makes concrete proposals for a path forward.

TBKTSG: Talking about where Vietnam stands these days, an economics researcher has warned that Vietnam might fall into the trap of free trade trends. What he means is that with the emergence of China as an economic power, the comparative advantages of East Asian countries are changing fast to adapt. Meanwhile, Vietnam might get stuck with its traditional comparative advantages of exporting raw materials and resources, fisheries and forestry products and industrial goods that use intensive labor supply.

- Vietnam has made great strides over the last two decades, with wide-ranging domestic reforms and external opening through WTO accession and other steps. From being closed and centrally controlled, the country has become a vibrant part of the global economy. This process has brought significant benefits to many Vietnamese citizens. Average prosperity has risen and poverty rates have dropped significantly.

While this economic model still has some potential, there are increasing signs that it is losing steam. Characterizing these emerging challenges as indications of a “free-trade trap” is, however, a serious mistake. Opening the economy has been crucial to Vietnam’s success so far. It remains a necessity for future gains in prosperity. But it is, and this is the key point, no longer sufficient.

At this stage of its development, Vietnam is facing a set of significant challenges quite different from before. The country must move beyond competing on its inherited assets - mainly a large, hard-working labor force – and start building unique strengths and capabilities and a much higher quality business environment. The Vietnam Competitiveness Report provides a detailed answer.

TBKTSG: The problem is, given the currency wars countries are waging against one another, the competitive edge can easily be eroded by some percentage points increase in a country’s foreign exchange rate. Do you think the competitive model still works under such circumstances?

- Like all countries participating in the global economy, Vietnam needs to be concerned about the significant global imbalances. A descent into protectionism has so far been avoided, but the large exchange rate movements are clearly a concern. Vietnam has little influence on the move to a more sustainable global architecture, with key decisions taken in Beijing, Washington, or at the G-20 meeting in Seoul. Vietnam’s best defense against global economic trends is to work on its long-term competitiveness.

Competitiveness is the driver of long-term prosperity growth, not short-term exchange rates. The more competitive a country is, the less the economy is affected by exchange rate movements. Just look at Germany and Sweden, two countries with high prosperity and a significant trade surplus despite rising exchange rates.

TBKTSG: It seems businesses around the world are changing their operation models, their competitiveness re-defined, productivity is no longer as important as innovation. Have you changed your view of the world economy during the last two years?

- For companies everywhere, the last few years have been a harsh test. With demand plummeting and access to finance suddenly restricted, many companies had to dramatically adjust the size and scope of their activities. Those companies who are emerging as the strongest are those that had a clear strategy and stuck with it. Having a distinctive positioning in the market, and focusing on it, guided them on areas to cut while preserving activities critical in the value proposition. Such companies are now gaining market share from competitors that cut back indiscriminately.

In countries like Vietnam, companies still have much to do in terms of adopting best practices in management, technology, and operations. Globalization makes accessing these best practices far easier. Those companies that successfully assimilate best practices in the unique context of their countries and industries reap significant benefits, becoming more productive and profitable. Companies that skillfully adapt global practices into local ones can outcompete not only their domestic rivals but even foreign multinationals. This is the kind of innovation, assimilating and adopting information technology, that will be most important in Vietnam for many years to come.

TBKTSG: Local businesspeople cannot and should not expect you to give them a panacea that might help them become competitive overnight. But they expect you to tailor your theory to the local characteristics and give them a localized version of how to compete from within Vietnam.

- Over time, Vietnamese companies will need to define true strategies. Today’s success is still often based on exploiting short-term opportunities rather than on building sustainable competitive advantages. The more an economy like Vietnam develops, the less this will be a winning approach. The fundamental insights on strategy are timeless. The specific strategy choices, however, can and do change as technologies and markets evolve. Vietnamese business leaders need to understand the fundamental rules of strategy, rather than falling prey to the latest fad in management. Those executives that understand these principles will have a huge opportunity to develop unique strategies that fit the Vietnamese context.

Bài đăng phổ biến