Trong khi đó, chưa từng có và trong tương lai gần, không biết tới khi nào mới có thông tin chính thức về quy mô kho vũ khí tên lửa- hạt nhân của nước này. Bắc Kinh không có ý định bàn luận về quy mô và phân bố kho vũ khí tên lửa-hạt nhân của mình, mà chỉ công bố một số lượng rất khiêm tốn. Lấy cớ này, Trung Quốc kiên quyết từ chối tham gia bất kỳ cuộc thảo luận nào về giải giáp vũ khí hạt nhân.
Thông tin đánh giá không chính thức do nhiều nguồn tin phương Tây đưa ra là mô hình độc đáo của sự vô lý siêu thực đến mức không thể lý giải nổi. Các Viện nghiên cứu Phương Tây được nhiều người biết tới như SIPRI của Thụy Điển hay Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế London dẫn ra các tư liệu, mà theo chúng thì CHND Trung Hoa có không quá 250 đơn vị vũ khí hạt nhân.
Còn nếu đánh giá kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc theo khả năng sản xuất của nước này thì Bắc Kinh phải có ít nhất vài ngàn, còn tối đa thì phải vài chục ngàn đơn vị. Tổ hợp hạt nhân của Trung Quốc đảm bảo được số lượng như thế một cách dễ dàng.
CHND Trung Hoa tiến hành thử nghiệm hạt nhân lần đầu vào năm 1964. Chẳng lẽ suốt 47 năm qua nước này chỉ chế tạo có 250 đầu đạn hạt nhân? Trong khi đó, Pakistan, theo chính những nguồn tin nêu trên, có khả năng khoa học và tiềm lực sản xuất không thể sánh với Trung Quốc, trong vòng 13 năm đã sản xuất được 110 đầu đạn hạt nhân. Nhưng toàn bộ sự phi lý này lại được nhiều tờ báo ở nước Nga và phương Tây đăng tải.
Không ai biết có bao nhiêu tên lửa
Số lượng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (30 DF-31/31A, 24 DF-5), tên lửa đạn đạo tầm trung (20 DF-4, 30 DF-3A, 90 DF21/21A) và tên lửa tác chiến-chiến thuật và chiến thuật (600 DF-11, 300 DF15) thường được đưa ra trên thực tế thậm chí chắc gì đã là giới hạn dưới.
Những đánh giá về khả năng sản xuất của Tổ hợp công nghiệp quốc phòng Trung Quốc và sự tồn tại ở vùng trung tâm Hoa lục một hệ thống tunnel ngầm khổng lồ để cất giấu tên lửa đạn đạo đã nói lên một điều CHND Trung Hoa phải có gần 1.000 tên lửa đạn đạo xuyên lục địa và số tên lửa đạn đạo tầm trung tối thiểu không ít hơn con số đó.
Về tổng số lượng nổ hạt nhân có công suất và công năng sử dụng khác nhau, có lẽ ít nhất cũng không thể dưới 5.000 đơn vị (tất nhiên là tính cả bom dùng cho máy bay), nếu như cho rằng việc chế tạo chúng đã được tiến hành hơn 40 năm qua.
Bản chất của việc xây dựng hệ thống đường hầm có giá trị tiền bạc khổng lồ đã cho thấy rằng, Trung Quốc phải có gì đó để cất giấu trong các đường hầm. Đó dứt khoát không thể chỉ là 250 tên lửa và ngần ấy đầu đạn.
Tình báo Trung Quốc ngay từ thập niên 1980 đã khai thác được từ Mỹ những bản vẽ loại đầu đạn hạt nhân mới nhất W-88, được lắp đặt trên các tên lửa đạn đạo “Trident-2” của tàu ngầm, và cả bom neutron. Điều này cho phép Trung Quốc tiến được một bước dài trong việc nghiên cứu, chế tạo các hệ thống tương tự của mình, tiết kiệm thời gian được hơn 10 năm và hàng trăm tỷ đô la tiền bạc.
Trong thập niên 1990 Trung Quốc đã sản xuất ít nhất 160 đầu đạn hạt nhân mỗi năm. Thậm chí nếu một phần đạn dược cũ bị loại bỏ và tháo gỡ, thì cũng không thể coi 250 đầu đạn là chuyện đùa.
Toàn bộ Lực lượng pháo binh 2 của PLA có 6 tập đoàn quân tên lửa (phiên hiệu từ 51-56), trong biên chế có 17 lữ đoàn. Tập đoàn quân số 52 gồm 4 lữ đoàn, triển khai tại tỉnh An Huy đối diện với Đài Loan, được trang bị chủ yếu các tên lửa đạn đạo tầm trung và tên lửa tác chiến- chiến thuật.
5 tập đoàn quân còn lại đóng ở các khu vực khác nhau của Trung Quốc, có trong trang bị các tên lửa đạn đạo tầm trung và xuyên lục địa. Trên thực tế gần như toàn bộ lãnh thổ nước Nga và Ấn Độ nằm trong tầm với của tên lửa đạn đạo tầm trung DF-4, kể cả nếu chúng được phóng đi từ những khu vực ở phía Đông Hoa lục (tầm bắn không dưới 5.500 km).
Với loại tên lửa đạn đạo tầm trung DF-3 (tầm bắn-2.500- 4.000 km) và loại DF-21 mới nhất (tầm bắn tối thiểu 1.800 km) nếu được bắn từ phần phía Tây của Trung Quốc cũng như vậy. Các vùng đông dân cư và mới được khai khẩn ở Đông Siberia và Viễn Đông nằm trong bán kính tiêu diệt của các loại tên lửa DF-15 (660 km) và DF-11 (gần 800 km).
Phiên bản sử dụng cho Hải quân của tên lửa đạn đạo DF-31 JL-2 đã được triển khai trên 4 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân dự án 094. Ngoài ra, ở Trung Quốc trong thời gian gần đây đã bắt đầu triền khai tên lửa hành trình đặt trận địa trên bộ DH-10, hiện có chừng 350-500 quả.
Cần phải nhắc lại rằng, đối với nước Nga tên lửa đạn đạo tầm trung của Trung Quốc là vũ khí chiến lược đúng nghĩa, bởi vì loại tên lửa này có thể bắn tới bất cứ điểm nào trên lãnh thổ Nga.
Nga kiềm chế được Mỹ bằng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa và tên lửa đạn đạo bố trí trên tàu ngầm, nhưng nếu so sánh với Trung Quốc thì cán cân trang bị tên lửa-hạt nhân đã nghiêng về phía có lợi cho nước này, mặc dù theo sự ngộ nhận lạ lùng khó hiểu, người Nga (trong đó có cả những đại diện của giới lãnh đạo chính trị-quân sự) vẫn tiếp tục tin vào ưu thế to lớn trước Trung Quốc trong lĩnh vực này.
Hợp phần không quân của các lực lượng hạt nhân Trung Quốc được mô tả trong bài báo “Cuộc công kích của công nghiệp hàng không Trung Quốc”.
Ở Trung Quốc cũng như ở Liên Xô cũ, nền tảng của lực lượng tên lửa chiến lược luôn luôn là tên lửa chứ không phải máy bay. Các máy bay ném bom chỉ giữ vai trò bổ sung nhất định. Có lẽ những máy bay H-6 (Tu-16) các phiên bản đầu tiên- những phương tiện mang bom hạt nhân B5 (trong kho vũ khí của Trung Quốc có ít nhất 120 quả loại này) khó có thể chọc thủng một hệ thống phòng không tương đối hiện đại nào đó. Nhưng hiện nay ở CHND Trung Hoa đang sản xuất các loại máy bay H-6H/K/M, có khả năng mang từ 2 đến 6 tên lửa hành trình phóng từ trên không CJ-10. Những máy bay như thế đã được chế tạo trong các thập niên từ 60 đến 70.
Những phương tiện mang vũ khí hạt nhân chiến thuật (bom B4, có ít nhất 320 quả) có thể là các máy bay cường kích JH-7, hiện có trong lực lượng Không quân và Không quân của Hải quân PLA khoảng 160 chiếc, việc sản xuất những máy bay loại này vẫn đang được tiếp tục.
Những hầm ngầm và thành phố dự bị
Về tổng thể, không thể có bất kỳ một nghi ngờ nào, dù nhỏ nhất về việc, Trung Quốc có số lượng nổ hạt nhân nhiều hơn Anh, Pháp và 4 quốc gia hạt nhân không chính thức (Ấn Độ, Pakistan, Israel, CHDCND Triều Tiên) gộp lại. Quá khó để nói được, tương quan tiềm năng hạt nhân của Trung Quốc với Nga và Mỹ thế nào.
Nếu quan tâm tới việc cắt giảm lượng nổ hạt nhân các loại theo giai đoạn của Nga và Mỹ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, có thể nói một cách chắc chắn, kho vũ khí của Trung Quốc ít nhất cũng sánh được với các kho vũ khí của Nga và Mỹ (còn nhiều nhất thì có thể đứng hàng đầu thế giới).
Bên cạnh đó không thể không thể bỏ qua yếu tố địa lý. Về phương tiện mang có tầm hoạt động xuyên lục địa của Trung Quốc, theo những gì đã biết, chỉ xếp sau Mỹ (và sự tụt hậu sẽ được rút ngắn, bởi vì ở Trung Quốc đã bắt đầu chế tạo các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa tân tiến nhất DF-41 với đầu đạn tự phân chia).
Còn về tên lửa đạn đạo tầm trung thì nước này còn vượt mặt cả Nga chứ chưa nói gì tới Ấn Độ. Ngoài ra trong nhiều tình huống Bắc Kinh còn có thêm cả đồng minh hạt nhân là Pakistan.
Cũng giống như Mỹ, Trung Quốc có lợi thế tuyệt đối trong trường hợp giải giáp toàn diện vũ khí hạt nhân, nhờ việc nước này có lực lượng vũ trang thông thường khổng lồ và trong 10 năm trở lại đây có rất nhiều tiến bộ về chất.
Vả lại, hiện thời dù sao Trung Quốc cũng còn thua kém Mỹ trong lĩnh vực vũ khí có độ chính xác cao, thì kho vũ khí hạt nhân chính là công cụ thu hẹp một cách đáng kể sự thua kém đó. Kho vũ khí này đóng vai trò chủ yếu là mối đe dọa bí mật. Việc công khai nó, nếu xảy ra, có thể làm toàn nhân loại kinh ngạc đến tột độ.
Nhờ có kho vũ khí hạt nhân như vậy mà Bắc Kinh công nhiên thể hiện không ngán chiến tranh hạt nhân.
Trong thời gian gần đây ở các thành phố lớn của Trung Quốc đang triển khai xây dựng những hầm trú ẩn ngầm có thể chứa được hàng trăm ngàn và thậm chí hàng triệu người.
Theo những thông tin chính thức, các hầm ngầm này nhằm bảo vệ dân cư trước những vụ động đất. Hiển nhiên, những lời giải thích như vậy không thể được coi là hoàn toàn thỏa đáng.
Thứ nhất là, bởi vì động đất xảy ra bất ngờ và kéo dài tối đa chỉ ít phút, vì thế dân chúng đơn giản là không kịp trú ẩn vào các hầm ngầm này.
Thứ hai là, nếu tất cả mọi người, trong thời gian động đất diễn ra, đều ở trong một hầm ngầm như thế, thì đảm bảo gần như 100% nó sẽ trở thành nấm mồ chung của họ, bởi vì các thành hầm sẽ đổ sập bởi sóng địa chấn. Khi có động đất mọi người được khuyến cáo nên ở trên mặt đất và tránh xa tất cả mọi công trình xây dựng.
Có thể cho rằng, bằng sự giải thích phi lý đó, Bắc Kinh muốn nhấn mạnh cho Moscow và Washington hiểu một điều: Trung Quốc hoàn toàn sẵn sàng đương đầu với cuộc chiến tranh hạt nhân. Các hầm ngầm, như mọi người đều biết, là sự bảo vệ hiệu quả nhất trước các vụ nổ hạt nhân và những yếu tố sát thương của nó (sóng xung kích, phóng xạ đâm xuyên, bức xạ ánh sáng, nhiễm phóng xạ).
Ngoài ra, trong những năm gần đây ở các vùng nằm sâu trong nội địa Hoa lục (chủ yếu ở Nội Mông) mấy chục thành phố đã được xây dựng với toàn bộ hạ tầng hiện đại, hiện đang bỏ trống, trong khi đất nước đang phải đối phó với nạn di dân khổng lồ.
Những điều phi lý được nhấn mạnh nhằm giải thích cho hiện tượng kỳ lạ này, đại loại như sai lầm của nhà đầu tư. Có thể xảy ra cùng lắm 1 đến 2 sai lầm kiểu đó, nhưng ở đây không phải là hàng chục, và không có nơi đâu trên thế giới xảy ra điều tương tự (có hàng chục thành phố bỏ không, nhưng không ở đâu có những đô thị mới không có người tới ở).
Trên thực tế, đích thị là, những thành phố này được xây dựng cho trường hợp xảy ra chiến tranh hạt nhân. Cả Mỹ, cả Nga sẽ không tiến công vào những thành phố không người, đơn giản là vì không thể có đủ bom đạn. Còn cư dân các thành phố, làng mạc đông người sẽ trú ẩn trong những hầm ngầm địa chấn, và khi các cuộc tiến công chấm dứt, chuyển tới định cư ở những thành phố mới. Và dù có một vài triệu người bỏ mạng, nhưng đối với một nước Trung Quốc có dân số trên 1,3 tỷ người thì điều này hoàn toàn không phải là thảm họa ghê gớm.
(BTP)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét